Phân tích bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi
Đề bài: Phân tích bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi
Một số bài văn mẫu: Phân tích bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi
Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Trãi (1380-1442), nhà thơ vĩ đại của Đại Việt thế kỷ 15, để lại dấu ấn mạnh mẽ trong văn hóa và nghệ thuật của quốc gia. Ngoài sức mạnh của áng văn, ông còn ghi dấu bằng hai tập thơ quý giá, là hai viên ngọc lấp lánh trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam: "Quốc âm thi tập" viết bằng chữ Nôm và "Ức Trai thi tập" viết bằng chữ Hán. Thi ca của Nguyễn Trãi không chỉ là sự tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ mà còn là sự hiểu biết sâu sắc về tâm hồn con người và tình yêu thiên nhiên. Trong thơ của ông, thiên nhiên được đặc biệt ca ngợi và tôn vinh, trở thành một phần quan trọng của tác phẩm nghệ thuật.
Không ít bài thơ xuân của Nguyễn Trãi nổi bật với vẻ đẹp tuyệt vời và tinh tế. Trong đó, "Bến đò xuân đầu trại" là một tuyệt phẩm xuân, như một đóa hoa rực rỡ, ngát hương, làm nổi bật trong bộ sưu tập "Ức Trai thi tập". Bài thơ này không chỉ là sự miêu tả về mùa xuân tươi mới mà còn là biểu tượng cho tình yêu sâu sắc đối với đất nước và cuộc sống. Nguyễn Trãi đã vinh danh thiên nhiên và quê hương qua bút và tâm hồn như một người hùng văn hóa của thời đại.
Văn xuôi cổ có vần có đối, có cấu trúc câu văn theo thi pháp chặt chẽ.
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi,
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.
Bài thơ của Ức Trai mô tả cảnh một ngày mưa xuân trên bến đò đầu trại tại Côn Sơn là một tác phẩm thơ đẹp, chiêm nghiệm sự hòa mình của tác giả vào vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Trong không gian rộng lớn, cảnh vật trở nên mờ mịt, chìm đắm trong tĩnh lặng, tạo nên một bức tranh mơ hồ của ngày mưa xuân.
Bên cạnh đó, bến đò được tác giả tả điều chỉnh với một màu xanh thẫm, đen như khói của cỏ xuân. Chỉ là cuối xuân, nhưng sắc cỏ xanh đã rì và từ xa, thảm cỏ xanh trông như một đám mây khói nổi bật giữa không trung. Biện pháp tu từ so sánh được sử dụng một cách tinh tế để tạo nên hình ảnh cụ thể, hùng vĩ:
"Cỏ xanh như khói bến xuân tươi".
Mỗi từ ngữ trong câu thơ đều như là một đường nét tỉ mỉ, tôn vinh vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của mùa xuân tại bến đò. Nó không chỉ là một mô tả về cảnh vật, mà còn là sự kết nối với những hình ảnh thiên nhiên khác trong thơ Nguyễn Du. Việc liên tưởng đến màu cỏ xanh trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du qua câu thơ "Cỏ non xanh tận chân trời..." là một cách tinh tế để kết nối những tác phẩm văn hóa của hai nhà thơ lớn, tạo ra một liên kết tinh tế giữa thời kỳ văn hóa và nghệ thuật Việt Nam
Câu thứ hai của bài thơ tiếp tục mô tả dòng sông và đưa người đọc chìm đắm vào không khí đặc biệt của một ngày mưa xuân tại bến đò đầu trại. Dòng sông hiện lên như một bức tranh sống động, với những con sóng như những đường thuỷ phách thiên vươn lên cao, tạo nên hình ảnh động đậy, mạnh mẽ và tinh tế như bàn tay của nghệ sĩ vẽ nên những đường nét huyền bí.
Vào cuối xuân, thời điểm mà trời mưa nặng hạt, cây cỏ và đất đai đều hái ra mùi hương đặc trưng của mùa xuân. Nước dòng sông dâng lên, như một sự sống động, hứng khởi của tự nhiên. Trời mưa, gió thổi mạnh và từ xa, người ta có thể nhìn thấy những đợt sóng nước bắn lên, vỗ lên ngang trời, tạo nên một hình ảnh huyền bí và quyến rũ. Tác giả chọn từ ngôn ngữ tinh tế để diễn đạt cảm xúc này:
"Lại có mưa xuân nước vỗ trời",
Nơi đây, mưa xuân không chỉ là hiện thân của mùa xuân mà còn là nguồn cảm hứng cho sự sống động và hồn nhiên của thiên nhiên. Ức Trai không chỉ mô tả cảnh vật mà còn biến nó thành một trải nghiệm tâm linh, thấu hiểu sâu sắc về vẻ đẹp và biểu tượng của mùa xuân Việt Nam. Sự độc đáo và tinh tế trong lối diễn đạt của ông tạo nên một cảm nhận đặc biệt về mùa xuân, một cách nhìn mới và sâu sắc về sự sống động của tự nhiên trong bức tranh thơ ca.
Câu thứ ba của bài thơ mở rộng không gian nghệ thuật, đưa người đọc vào hình ảnh những con đường trên đồng nội, dẫn dắt họ đến bến đò vắng teo, không có bóng hình khách qua lại. Cảnh vật yên bình như được ngâm trong nỗi buồn của sự quạnh quẽ. Mưa xuân kéo dài những ngày, làm cho không gian trở nên trầm lặng và bí ẩn hơn:
"Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách".
Câu thứ tư tập trung mô tả con đò, đưa ra hình ảnh rất đặc trưng của "bến đò xuân đầu trại". Bằng câu thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi miêu tả con đò như một hình tượng sống, nhân hóa nó thành một thực thể có cảm xúc. Trong cơn mưa, khi không có khách qua đò, con đò trở thành một hình ảnh mồ côi và đơn độc. Hình ảnh này được diễn đạt một cách thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp và bi thương:
"Cô châu trấn nhật các sa miên".
Con đò, như một người đồng đội, giữ đầu gối lên bãi cát và ngủ bình yên, trở thành biểu tượng cho sự nhàn tản và thư thái.
Thơ của Nguyễn Trãi là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn và hình ảnh con đò thường xuyên xuất hiện như một biểu tượng cho tâm trạng và tri giác của nhà thơ. Những câu thơ đầy hồn và thi vị này một lần nữa chứng minh sức mạnh của ngôn ngữ thơ, biến những hình ảnh đơn giản thành những tác phẩm nghệ thuật tinh tế, làm cho độc giả cảm nhận được sâu sắc hơn về tâm tư và tình cảm của Nguyễn Trãi.
"Bến đò xuân đầu trại" là một tác phẩm thơ mang đặc điểm của thể loại thất ngôn tứ tuyệt, mở ra một thế giới tươi đẹp và hữu tình qua bốn đoạn thơ tinh tế. Nhà thơ Nguyễn Trãi đã sử dụng ngôn ngữ của thi ca để tạo nên những hình ảnh rực rỡ về cảnh vật, đồng thời thể hiện tâm hồn sâu lắng của mình.
Bốn nét vẽ cảnh vật trong bài thơ là những điểm nhấn quan trọng, tạo nên bức tranh hữu tình về mùa xuân. Màu xanh của cỏ, mặt sông vỗ sóng, con đường nội và con đò mồ côi nằm ngủ được mô tả một cách chi tiết và tinh tế, tạo nên sự hòa quyện và hài hòa trong bức tranh tự nhiên.
Những biện pháp tu từ như so sánh, thậm xưng, nhân hóa được sử dụng một cách tinh tế, làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân. Cảm tĩnh lặng, thơ mộng và bình yên thoát ra từ những từ ngữ nhẹ nhàng, tạo nên một không khí trầm tư và dịu dàng. Trong sự yên bình, nhà thơ đã lồng ghép một nỗi buồn cô đơn nhẹ nhàng, làm cho bức tranh trở nên thêm phần sâu sắc và đặc biệt.
Tâm sự của nhà thơ được giãi bày kín đáo qua những vần thơ trong sáng, như một khúc nhạc êm dịu, lấp lánh giữa không gian thơ. Bức tranh xuân xinh xắn trong làng quê thế kỷ 15 được khắc họa với sự mộng mơ và tình cảm, là nguồn cảm hứng cho tình yêu với quê hương và mùa xuân. Bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, khắc họa nét đẹp tinh tế và hòa mình vào không gian thơ ca của ngày xuân.
Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Trãi (1380-1442) nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỷ 15. Ngoài những áng văn có sức mạnh như mười vạn quân. Ức Trai – Nguyễn Trãi còn để lại hai tập thơ – hai viên ngọc quý lấp lánh trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam: “Quốc âm thi tập” bằng chữ Nôm và “Ức Trai thi tập” bằng chữ Hán.
Thơ Nguyễn Trãi đã dành cho thiên nhiên một địa vị cao sang. Màu xanh của cỏ, tiếng rì rầm của suối, bóng thông ven núi, tiếng cuốc gọi hè, vầng trăng soi vào chén rượu, cây chuối, cành mai, hoa sen trong đầm, hoa lựu thắp đỏ ngoài hiên… đã đi vào thơ Ức Trai như một mảnh tâm hồn. Đặc biệt Ức Trai có nhiều bài thơ xuân tuyệt tác. “Bến đò xuân đầu trại” là một bài thơ xuân đẹp như đóa hoa rực rỡ ngát hương trong “Ức Trai thi tập”
* Văn xuôi cổ có vần có đối, có cấu trúc câu văn theo thi pháp chặt chẽ.
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi,
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.
(Bài thơ dịch)
Bài thơ tả cảnh một ngày mưa xuân trên bến đò đầu trại. Cảnh vật như mờ đi, chìm đi trong một không gian bao la tĩnh lặng. Ức Trai đã viết bài thơ này trong những tháng năm sống ở Côn Sơn.
Bao trùm lên không gian, lên bến đò là một màu xanh thẫm, xanh đen như khói của cỏ xuân. Vì đã cuối xuân nên sắc cỏ xanh rì, đứng xa thấy thảm cỏ xanh như khói. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh tạo nên một hình ảnh cụ thể ca ngợi vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt mùa xuân thôn dã nơi bến đò đầu trại:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi”.
Sắc cỏ, thảm cỏ trong thơ Nguyễn Trãi làm ta liên tưởng đến màu cỏ xanh trong thơ Nguyễn Du sau này:
“Cỏ non xanh tận chân trời…” (Truyện Kiều)
Câu thứ hai tả dòng sông với những con sóng “nước vỗ trời” (thuỷ phách thiên). Vì đã cuối xuân, trời mưa nhiều nặng hạt chuẩn bị cho những trận mưa rào đầu hè. Nước dòng sông dâng lên. Trời mưa, gió thổi, đứng xa ngắm cảnh thấy trên mặt sông nước bắn lên, vỗ lên ngang trời. Đó là một nét vẽ thậm xưng đặc tả con sóng trên dòng sông xuân một ngày mưa. Con sóng ấy, hình ảnh “nước vỗ trời” ấy biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của mùa xuân:
“Lại có mưa xuân nước vỗ trời”.
Mưa xuân là nét đặc trưng của mùa xuân Việt Nam bao trùm vạn vật, điều đó ai cũng có thể thấy được, nhưng cảm nhận “nước vỗ trời” trên dòng sông xuân, sự vận động của mùa xuân, bước đi của mùa xuân thì chỉ riêng Ức Trai mới biết đến và có một lối nói rất thơ.
Câu thứ ba mở rộng không gian nghệ thuật nói về những con đường trên đồng nội đi tới bến đò vắng teo hành khách. Cảnh vật lặng lẽ thấm buồn. Mưa xuân kéo dài đã nhiều ngày rồi… “Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách”.
Câu thơ thứ tư tả con đò, hình ảnh trung tâm của “bến đò xuân đầu trại”. Câu thơ chữ Hán: “Cô châu trấn nhật các sa miên” (Thuyền mồ côi suốt ngày gác đầu lên bãi mà ngủ). Trời mưa, không có khách qua đò. Con đò nay trở thành mồ côi, đơn độc. Con đò được nhân hóa đang nằm ngủ an nhan, ngon lành, gối đầu lên bãi cát mà ngủ. Mỗi câu thơ đầy thi vị, thơ mộng:
“Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.
Con thuyền, con đò là hình ảnh được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Và hầu như lúc nào cũng làm cho người đọc liên tưởng đến tâm tình nhà thơ trong những tháng ngày dài đi ở ẩn: nhàn tản, thư thái, ung dung:
“Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”.
“Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh…”
– “ Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.
(Quốc âm thi tập)
“Bến đò xuân đầu trại” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bốn nét vẽ cảnh vật nên thơ hữu tình: màu xanh của cỏ, mặt sông vỗ sóng, con đường nội, con đò mồ côi nằm ngủ. Các biện pháp tu từ như so sánh, thậm xưng, nhân hóa được vận dụng tinh tế, nhằm tạo hình và gợi cảm. Cảm tĩnh lặng, thơ mộng, bình yên thoáng một nỗi buồn cô đơn. Tâm sự của nhà thơ được giãi bày kín đáo qua những vần thơ trong sáng nhẹ nhàng, thơ mộng. Một bức tranh xuân xinh xắn nơi làng quê trong thế kỷ 15. Bài thơ xuân đẹp, giúp ta yêu thêm mùa xuân quê nhà.
Bài văn mẫu số 3
Xuân Diệu từng nhận xét về thơ của Nguyễn Trãi rằng “Trán thi sĩ vượt mây nhưng ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Quả thật, thơ Nguyễn Trãi từ xưa đến nay không ai có thể cưỡng nổi lòng mình mà hết lòng khen ngợi. Đến với bài thơ “Bến đò xuân đầu trại” do ông chắp tay bằng chữ Hán đã để lại dấu ấn khó phai.
“Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô châu trấn nhật các sa miên”.
“Bến đò xuân đầu trại” viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được rút trong tập “Ức Trai thi tập” miêu tả khung cảnh mưa mùa xuân trên bến đò đầu trại. Trong những ngày tháng sống ở Côn Sơn, tức cảnh sinh tình, Nguyễn Trãi đã không kìm được mà “nở hoa trên trang giấy”.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ viết:
“Độ đầu xuân thảo lục như yên”
(Dịch: Cỏ xuân ở đầu bến đò xanh như khói)
Màu xanh của cỏ được hiện lên. Một màu xanh mơn mởn, căng tràn sức sống. Sắc xanh vào mùa xuân càng khiến trái tim người ta thêm phần háo hức. Thế nhưng, thảm cỏ đấy lại được nhà thơ ví “như yên”. Rõ ràng, màu xanh ở đây đã bị trộn lẫn bởi đám sương khói mờ mờ ảo ảo. Nó như thoắt ẩn thoát hiện, có cái gì đấy rõ nét nhưng có khi thì không.
Trong làn sương chuyển dịch nhẹ nhàng lướt vào cỏ xanh, Nguyễn Trãi đã chú ý đến. Sự khác biệt của ông so với những nhà thơ khác ở chỗ, là người luôn tìm được cái cảm hứng trong ti tỉ những điều nhỏ nhặt, thậm chí là hiện tượng người ta lãng quên. Phép so sánh phần nào làm nổi bật được màu xanh trên nền sương khói xám trắng mơ hồ.
“Xuân vũ thiên lai thủy phách thiên.”
(Dịch: Lại thêm có mưa xuân nước vỗ vào nền trời)
Mùa xuân đến, kéo theo những đợt mưa phùn lất phất. Ở đây, với Nguyễn Trãi, ông có cái nhìn hết sức mới lạ khi dùng “thủy phách thiên”. Đó là sự vận động của mùa xuân. Trên bến sông vào độ xuân ấy, những giọt mưa thả nhẹ lên mặt nước uyển chuyển và nhẹ nhàng. Mưa không chỉ chạm vào mặt nước vốn tĩnh lặng mà nó còn tưới mát thảm cỏ trên mặt đất vốn đã xanh mởn nay còn xanh hơn.
“Dã kính hoang lương hành khách thiểu,”
(Dịch: Đường ngoài nội vắng teo ít người đi lại)
Câu thơ thứ ba trong bài là câu thơ tả thực, chuyển dịch từ cảnh vật thiên nhiên sang khung cảnh con người. Trên con đường đồng nội, những tưởng nhộn nhịp hóa ra chỉ là “thưa”. Bến đò hiu quạnh, lác đác vài người. Từ “quạnh” nhấn mạnh sự yên tĩnh đến thê lương.
“Cô châu trấn nhật các sa miên.”
(Dịch thơ: Chiếc thuyền đơn côi suốt ngày gối đầu lên bãi cát ngủ say)
Có lẽ, đây là câu thần của bài thơ. Cảnh xuân ở bến đò đẹp đến nhường nào thì cảnh người lại khiến chúng ta khoác lên nỗi đượm buồn. Chiếc thuyền đơn côi tĩnh lặng trên mặt nước không vị khách “ghé thăm”. Vì thế mà chiếc thuyền này đã “gối đầu” lên bãi cát mơ màng ngủ cũng bởi tiết trời mưa. Hình ảnh vừa thi vị vừa thơ mộng.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Trãi viết nên bài thơ để đời. Thơ là tiếng lòng. Bởi nếu không xuất phát từ một trái tim chân thành, muốn được viết, được chép, được ghi lại khoảnh khắc này thì làm sao có một bài thơ hay thế này. Việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa khiến cảnh và người trở nên hài hòa, lắng đọng. Bài thơ thành công diễn tả được bức tranh xuân yên bình, và ẩn chứa sau đó là một tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước.
Như vậy, qua bai thơ “Bến đò xuân đầu trại”, nhà thơ Nguyễn Trãi đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh mưa ngày xuân dạt dào tình cảm.
Bài văn mẫu số 4
Thiên nhiên là chiếc nôi khổng lồ chứa đựng bao điều bí ẩn. vẻ đẹp của thiên nhiên không bút nào tả xiết, từ xưa đến nay, vẻ đẹp đó luôn thay đổi theo nhịp thời gian. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng cho biết bao thi sĩ, nghệ nhân. Từ những nông dân bình dị cho đến người trị vì đất nước, tất cả đều bị thiên nhiên cuốn hút và họ trở nên hòa nhập, đồng cảm với thiên nhiên, khám phá ra vẻ tuyệt mĩ của nó.
Đã có biết bao bài thơ, khúc ca ra đời từ giây phút đón nhận, cảm nhận được vẻ đẹp ấy của những khoảnh khắc thời gian Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi, Có bệnh bảo mọi người của Mãn Giác, Cảnh mùa xuân của hoàng đế Nhân Tông. Đó cũng chính là lúc con người mở rộng tâm hồn mình đón nhận thiên nhiên tươi đẹp.
Cảnh thiên nhiên trong thơ ca cổ điển được miêu tả rất sống động, có hình ảnh và trữ tình. Tuy chỉ là vài nét chấm phá cũng đã tạo nên những đường nét uyển chuyển, gợi cảm, làm cho tâm hồn người đọc cũng rung cảm trước vẻ đẹp của cảnh bằng những nhận xét tinh tế, sâu sắc và chân thực của các thi sĩ. Trong đó đặc biệt là những tác phẩm của Nguyễn Trãi.
Đọc bài thơ sau ta sẽ cảm nhận được tâm hồn nhà thơ hơn:
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Đường đồng quạnh quẽ thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi.
(Bến đò xuân đầu trại - Nguyễn Trãi)
Thiên nhiên ở đây được miêu tả là mùa xuân của quê hương Nguyễn Trãi. Mùa xuân rất đẹp: cỏ xanh tươi non mơn mởn trông xa như làn khói lam phủ nhẹ trên bến đò. Điểm vào khung cảnh huyền ảo đó là những hạt mưa xuân bay lất phất như lơ lửng, lửng lơ ngang trời.
Đọc câu thơ ta có cảm giác cảnh đẹp nhưng hoang vắng, quạnh quẽ làm sạo! Xen giữa khung cảnh tươi đẹp của mùa xuân, tại sao Nguyễn Trãi lại tả cảnh quạnh quẽ, trông vắng của con đường đồng nhỏ? Tại sao ông không tả cảnh tấp nập của những người dân trên đường về làng sau buổi chợ? Sao ông chỉ miêu tả có con đò nằm trên bãi cát, trong khi bao cảnh đẹp khác ông bỏ qua?
Đây chính là chỗ bộc lộ tâm tình của Nguyễn Trãi, một bậc trung quân hết lòng vì dân vì nước, nhưng chán ghét thói đời nhiễu nhương, ông lui về ẩn tại quê hương, sống những năm tháng cuối đời trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
Cô đơn và lẻ loi giữa thời đại ông đang sống, không người tri kỷ, ông làm bạn với thiên nhiên, chan hòa với thiên nhiên, cảm thụ vẻ tươi sáng của thiên nhiên để làm nên những tác phạm xuất chúng, trữ tình, bất hủ. Nhà thơ muốn qua đó để gửi gắm tâm sự cô độc, lẻ loi, nỗi cô đơn trong tâm hồn mình để người đời hiểu rõ ông hơn, có cách nhìn khác đối với ông.
Chính tâm sự này đã giúp chúng ta, những thế hệ sau này càng thêm kính trọng ông hơn, chia sẻ với ông nỗi cô đơn, lạnh lẽo làm con người suy sụp dần. Đây chính là nét đặc trưng của văn thơ Nguyễn Trãi là phong cách “tả cảnh ngụ tình” thường gặp ở văn thơ cổ điển thời phong kiến.
Bài văn mẫu số 5
Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ẩn chứa nỗi lóng của Nguyễn Trãi. Thơ xuân của Nguyễn Trãi đẹp lắm. Người anh hùng – nhà thi sĩ với thanh gươm và bầu rượu túi thơ như chan hòa với mùa xuân và cỏ cây hoa lá. Bao vần thơ chứa chan xuân sắc xuân tình.
Tiêu biểu cho thơ xuân của Nguyễn Trãi là bài thơ bằng chữ Hán: “Bến đò xuân đầu trại’’ trong “ức Trai thi tập”. Qua bài thơ ấy, chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc: “Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ẩn chứa nỗi lòng của Nguyễn Trãi”.
Bao trùm không gian, lên bến đò là một màu xanh thẫm. xanh đen như khói của cỏ xuân. Cuối xuân, sắc cỏ xanh rì, đứng xa thấy thảm cỏ “xanh như khói”:
“Cỏ xanh như khối bến xuân tươi”
Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ so sánh tả sắc cỏ một cách cụ thể sống động, ca ngợi vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.
Thơ cổ có nhiều câu đẹp tả sắc cỏ mùa xuân. “Cỏ non xanh tận chân trời…” (Truyện Kiều), “Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh” (Chinh phụ ngâm).
“Lại có mưa xuân nước vỗ trời”
Cuối xuân, mưa nhiều, nước sông lên to, gió thổi “sóng vỗ trời” (thúy phách thiên); một nét vẽ thâm xưng đặc tả con sóng trên dòng sông xuân dưới màn mưa. Con sóng “nước vỗ trời” biểu tượng cho sức xuân. Mưa xuân là nét đặc trưng của mùa xuân quê ta, bao trùm vạn vật, điều đó ai cũng cảm nhận được. Nhưng thấy “nước vỗ trời” trên dòng sông xuân, sự vận động của mùa xuân, bước đi của mùa xuân thì chi riêng ức Trai mới cảm xúc được và có một lối nói rất thơ.
Câu ba mở rộng không gian miêu tả, nói về những con đường trên đồng quê đi tới bến đò. Mưa liên miên, ú khách lại qua. Cảnh vật tĩnh lặng thấm buồn “quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách”.
Câu bốn tả con đò, trung tâm của bức tranh “Bến đò xuân đầu trại”. Câu thơ chữ Hán: (Thuyền mồ côi suốt ngày gối đầu lên bãi mà ngủ.
Trời mưa không có khách qua đò. Con đò nay trở thành mồ côi, đơn độc. Con đò được nhân hóa đang nằm ngủ an nhàn ngon lành, gối đầu lên bãi cát mà ngủ. Một câu thơ đầy thi vị, -thơ mộng:
“Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.
Con thuyền, con đò là hình ảnh được nói đến nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Con đò dưới vầng trăng. Con đò kề bãi tuyết. Con đò trong mưa… Hình ảnh ấy lúc nào cũng làm cho người đọc liên tưởng đến tâm tình nhà thơ trong những tháng ngày dài đi ớ ẩn: nhàn tản, thư thái, ung dung, thoáng một nỗi buồn cô đơn, lạnh lẽo.
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”
“Hương cách gác vân thu lạnh lạnh.
Thuyền kê bãi tuyết nguyệt chênh chênh”
(Quốc âm thi tập)
“Bến đò xuân đầu trại” không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn chứa đầy tâm sự. Cảnh được phác họa mấy nét chấm phá rất thần tình. Bức tranh xuân thân thuộc, bình dị, đáng yêu. Nguyễn Trãi hòa nhập với thiên nhiên, gửi hồn mình vào cảnh vật. Qua bài thơ, ta cảm nhận “thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ổn chứa nỗi lòng ức Trai”. “Bến đò xuân đầu trại” là một bài tứ tuyệt kiệt tác.
Xem thêm các bài văn mẫu hay, chi tiết khác:
TOP 10 Bài văn Phân tích bài thơ Vịnh Khoa Thi Hương (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài phân tích THƠ DUYÊN (2024) cực hay
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Thu vịnh (2024) HAY NHẤT
TOP 15 Bài văn Phân tích bài thơ Bạn đến chơi nhà (2024) HAY NHẤT
TOP 5 Bài văn Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà (2024) HAY NHẤT