Dàn ý phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
I. MỞ BÀI
- Trong nền văn học cổ Việt Nam, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí được coi là một cuốn tiểu thuyết tiêu biểu viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Mười bảy hồi của tác phẩm đã ghi lại cuộc sống thối nát của vua quan triều Lê - Trịnh và phong trào phát triển của phong trào Tây Sơn với hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ đánh thắng thù trong giặc ngoài.
- Hồi thứ 14 của tác phẩm đã kể lại lần thứ 3 ra Bắc của Nguyễn huệ với chiến công thần kỳ vào bậc nhất trong lịch sử đại phá 20 vạn quân Thanh chỉ trong 10 ngày và ở đây, hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người mãi mãi là hình ảnh đẹp trong những trang lịch sử chói ngời của dân tộc.
II. THÂN BÀI
1. Trước hết ở Quang Trung là hình ảnh vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, có hành động mạnh mẽ quyết đoán.
- Sự sáng suốt của Nguyễn Huệ chính là ở việc nhận định tình hình và quyết định lên ngôi hoàng đế:
+ Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ mới chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo Nguyễn Huệ đã định “thân chinh cầm quân đi ngay” song trước lời bàn của các tướng sĩ, ông đã nhận thấy rằng cần phải lên ngôi hoàng đế, chính vị niên hiệu rồi mới đàng hoàng xuất quân. Ở cương vị của Nguyễn Huệ, việc tiếp thu lời bàn của các tướng sĩ, biết lắng nghe và thực thi những điều ngoài ý định của mình, đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt của vị chỉ huy biết làm gì để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Cho nên chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đã làm xong 2 việc lớn: lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đã kịp thời hạ lệnh xuất quân. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ để thấy sự sáng suốt trong trái tim của con người luôn biết vì đất nước.
+ Quang Trung còn là người mưu lược sáng suốt khi nhận định tình hình của giặc, của ta. Ta hãy nghe Quang Trung dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ra Bắc: “trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng …”. Và để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đã dẫn ra một hệ thống song hành liên tục: cứ một triều đại phong kiến phương Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu phương Nam. Rồi để giúp tướng sĩ nhận ra chân tướng “Phù Lê diệt Trịnh” của Tôn Sĩ Nghị, nhận ra dã tâm, bản chất xâm lược của quân Thanh. Ông khéo léo khích lệ tướng sĩ khi ngợi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó mà kêu gọi tướng sĩ “những kẻ có lương tri, lương năng hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn”. Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn và nhớ tới “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Có thể nói Quang Trung thật sáng suốt khi nhận thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi lòng yêu nước cho nên quân lính nhất nhất “xin vâng lệnh không dám hai lòng”.
- Ở Quang Trung còn là sự quyết đoán mưu lược trước mọi biến cố, quyết đoán trong việc nhìn nhận bề tôi, ở cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quân thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ cho nên ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là không có tài”. Vì thế ông đã xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu ngạo”. Cách hiểu người, dùng người đến mức tri âm tri kỷ mà sáng suốt như thế chỉ có ở Quang Trung. Nhờ có sự sáng suốt am hiểu bề tôi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống như Lê Lợi xưa kia:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phu tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
- Ở Quang Trung ta còn thấy một sự sáng suốt thật đáng quý, đó là tầm nhìn xa trông rộng. Cho dù quân Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự sáng suốt tự tin, mưu lược tiến đánh đã sẵn “mười ngày đánh đuổi người Thanh”. Nhưng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến đó là “khéo lời lẽ để dẹp yên binh đao” cho nên Nguyễn Huệ đã sáng suốt chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nhưng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lưng voi trước trận đánh, Quang Trung đã chuẩn bị kế hoạch cho mười năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một người anh hùng tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc biết bao.
* Qua việc phân tích tình hình ta, địch, qua việc chuẩn bị kế hoạch 10 năm xây dựng Đại Việt ta có thể khẳng định Quang Trung là con người có tài trí sáng suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh quân mà không phải ai cũng có được.
2. Dưới ngòi bút của tác giả Ngô gia văn phái, nhân vật người anh hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Tài thao lược của Nguyễn Huệ ở đoạn trích hồi thứ 14 đó là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc kỳ tài trong việc dùng binh. Dưới sự sáng suốt trong việc chỉ huy của Quang Trung, đội quân của ông đã lớn mạnh không ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức chiến dịch thần tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm quân và tài năng quân sự, tài thao lược của Quang Trung chính là ở phương diện thần tốc bất ngờ.
+ Tài thao lược của Quang Trung thể hiện ở phương diện chỉ huy thần tốc mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa hết ngạc nhiên: tại sao Nguyễn Huệ có thể vượt qua quãng đường từ Phú Xuân đến Thăng Long chóng vánh, hơn bốn trăm dặm mét trong bốn ngày, một tốc độ di chuyển quân thần tốc và cũng một tốc độ tuyển quân thần kỳ: cứ 3 suất đinh thì lấy 1. Rồi lạ chỉ trong một ngày 30 Tết mà có thể tổ chức được cho quân lính ăn Tết rồi kịp ban bố lời dụ về chủ quyền đất nước. Đó cũng là một ngày đủ để chia thành 5 đoạ quân tiến về Thăng Long rồi dám dự tính đánh tan quân Thanh vào ngày 7 tháng giêng. Tất cả những công việc to lớn ấy chỉ diễn ra trong thời gian tính bằng ngày. Không phải là một bậc kỳ tài thì không thể làm nổi, đó chính là điều kỳ diệu của Quang Trung.
+ Tài thao lược của Quang Trung còn thể hiện rõ khi chọn cách đánh bất ngờ, biết giặc kiêu căng khinh suất là tổ chức đánh ngay, biết chọn tướng chỉ huy, hoạch định hướng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả tài thao lược được thể hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh bất ngờ thần tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề được tin cấp báo . Vì vậy quân tướng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn như nhìn thấy “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so sánh với Bình ngô đại cáo)
“Thành Đan Xá thây chết đầy núi ….”
Quang Trung cùng với đội quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong những trang lịch sử hào hùng của dân tộc.
3. Hình ảnh Quang Trung – khí phách hào hùng lẫm liệt.
Quang Trung cưỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhưng phong thái ung dung tỉnh táo khác thường. Quang Trung đã tự tin khẳng định 10 ngày đánh đuổi quân Thanh thể hiện trí tuệ sáng suốt, biết làm chủ trong mọi tình thế. Chính phong thái ung dung tự tin của con người có tài thao lược đã tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng.
Dưới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta như nhìn thấy hình ảnh Quang Trung khoác áo bào đỏ cưỡi trên lưng voi chỉ huy 1 đội quân dàn trận chữ “Nhất” tiến vào Thăng Long.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
- Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhưng vừa nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phương lược, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với một mũi tiến công xông pha nơi hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi ban mai, trong khói toả mù trời của súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đã khắc tạo một hình tượng đẹp trong chiến trận. Hình ảnh ấy đã được sử sách còn ghi lại “ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu” tấm áo bào đỏ của quang Trung sạm đen khói súng. Quang Trung đã trở thành một hình tượng đẹp đẽ về người anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm liệt trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc.
- Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Họ là những người tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân tộc bởi thế họ viết thực và hay về người anh hùng dân tộc Quang Trung.
III. KẾT LUẬN
- Ở tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của các tác giả về những trang tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung. Hình ảnh Quang Trung trong đoạn trích giống như một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le lói nhưng vẫn sáng ấy, mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng suốt, tài thao lược hơn người và một khí phách hào hùng lẫm liệt.
- Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đương thời:
“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Như trên trời xuống ai dám đương …”
Một số bài văn mẫu hay phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
Bài mẫu số 1
Chiến tranh đã khép lại nhưng trong sử sách nước nhà vẫn còn tô đậm dấu ấn của trận Ngọc Hồi - Đống Đa với chiến thắng thần tốc, vang dội đất trời đã khiến chúng ta nhớ đến một vị vua tài ba, anh dũng đó chính là vua Quang Trung. Tuy tương quan lực lượng chênh lệch nhưng nhờ có những vị tướng giỏi với tài điều binh khiển tướng đã giúp cho quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy, nhóm tác giả Ngô gia văn phái trong "Hoàng Lê nhất thống chí" đã tái hiện lại hoàn cảnh nước ta khoảng 30 năm cuối thế kỉ 18, đặc biệt là qua đoạn trích hồi thứ 14 ta đã thấy được hình tượng vua Quang Trung và sự thất bại của quân bán nước và cướp nước.
Nhóm tác giả Ngô gia văn phái bao gồm hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm, ông từng làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Có nhiều nguồn tài liệu cho rằng ông là tác giả của 7 hồi đầu của "Hoàng Lê nhất thống chí". Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác ruột của Ngô Thì Chí tuy học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn đến năm 1827 thì về nghỉ và là tác giả của 7 hồi tiếp theo của "Hoàng Lê nhất thống chí". Đoạn trích được học là hồi thứ 14 của "Hoàng Lê nhất thống chí" đã tái hiện lại chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, đồng thời cho thấy sự thảm bại của tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Trong tác phẩm, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ được miêu tả sắc nét với tài cầm quân "bách chiến bách thắng", có tính quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của thuộc hạ để hiểu lòng dân, lên ngôi vua giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc chiến đấu. Khi đến Nghệ An ông lại cho với người cống sĩ vào để hỏi rằng chuyến đi này của ông liệu thắng hay bại cho thấy rằng ông làm mọi việc là vì dân cho nên việc nhỏ nhất cũng phải theo ý kiến của dân. Khi nghe vị cống sĩ trả lời "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan" thì vua Quang Trung "mừng lắm" vì sự quyết tâm này của ông đã được nhân dân ủng hộ. Ông lập tức cho người kén lính và chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhà vua đã có "hơn một vạn quân tinh nhuệ" trong tay. Nhờ có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt hơn người, nhạy bén trước thời cuộc và vô cùng khéo léo nên ông đã thuyết phục được các binh sĩ "không dám hai lòng". Khi nói với các binh sĩ, ông đã cho họ ngồi cho thấy rằng ở đây không hề có sự phân biệt giữa vua và lính. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên nhất định sẽ phải trừng phạt kẻ phản bội khiến cho các binh sĩ càng thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc hơn. Nhờ vào ý chí quyết chiến quyết thắng, có tầm nhìn xa trông rộng, khao khát hòa bình nên quân Lam Sơn đã giành chiến thắng "thần tốc" ở trận Ngọc Hồi. Lời hứa hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng của ông được chứng minh bằng tài điều binh khiển tướng như thần. Ông đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công làng Ngọc Hồi đã khiến cho quân Thanh hoàn toàn bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự được nữa, chỉ biết giẫm đạp lên nhau mà chạy. Dựa vào những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy rằng vua Quang Trung là một vị anh hùng dân tộc quả cảm, tài trí, giàu lòng nhân ái, bậc thiên tài quân sự và cũng chính là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn , của chiến thắng vĩ đại.
Khi nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng thì cũng là lúc quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại và bè lũ bán nước hại dân Lê Chiêu Thống phải gánh chịu số phận bi đát. Quân Thanh thì có tướng bất tài Tôn Sĩ Nghị luôn kiêu căng, tự mãn chủ quan kéo quân vào xâm chiếm thành Thăng Long chỉ chăm chú việc yến tiệc vui mừng mà không đề phòng bất trắc, "sợ mất mật", "ngựa không kịp đóng yên", "người không kịp mặc áo giáp" mà vội vàng chuồn trước. Quân sĩ thì vô dụng cho nên khi quân Tây Sơn đánh vào thì bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, chúng tham sống sợ chết đến mức tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết nhiều đến nỗi nước sông Nhị Hà cũng bị tắc không thể chảy được. Vua tôi Lê Chiêu Thống thì chỉ biết chầu chực, cầu cạnh, luồn cúi dựa vào thế lực quân Thanh, chạy bán sống bán chết khi nghe tin quân Tây Sơn đuổi kịp và phải trốn sang Tàu. Đó cũng chính là số phận nhục nhã, hèn hạ của vua tôi Lê Chiêu Thống nói riêng và của toàn bộ lũ bán nước và cướp nước nói chung.
Tác giả đã lựa chọn trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử, ngôn ngữ kể, tả chân thực, gây ấn tượng mạnh đã thể hiện thái độ của mình với từng đối tượng khác nhau như vua Quang Trung, quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống. Nhịp điệu nhanh, hối hả ẩn chứa sự hả hê, sung sướng trước chiến thắng oanh liệt của vua Quang Trung và sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Nhịp điệu có phần chậm hơn, không giấu giếm được sự ngậm ngùi, xót thương khi miêu tả tỉ mỉ cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống vì họ vốn là những cựu thần của nhà Lê. Đoạn trích đã thể hiện quan điểm lịch sử đúng đắn, tinh thần yêu nước thương dân của nhóm tác giả và từ đó lên án lũ bán nước, cướp nước.
Qua đoạn trích trên, nhóm tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh "toàn bích" về vị anh hùng oai phong, lẫm liệt và tài giỏi Quang Trung. Đó cũng chính là tấm gương sáng để chúng ta cần học hỏi và noi theo về tinh thần quả cảm, yêu nước. Lòng yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Bài mẫu số 2
Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn sách của dòng họ Ngô Thì ở làng tả Thanh Oai, một cuốn sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có vua Quang Trung đại phá hơn ba mươi vạn quân Thanh, một tác phẩm đưa con người ngược lại quá khứ để thấy được cuộc sống, xã hội thời bấy giờ và hòa mình vào chiến thắng vẻ vang hào hùng, đắm mình trong không khí tưng bừng lịch sử đó.
Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện chân thực nhân vật lịch sử Quang Trung, người có công to lớn, một vị anh hùng của dân tộc trong chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước, Quang Trung hiện lên trong tâm trí người đọc là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, tài trí song toàn, xả thân vì đất nước, xả thân vì dân tộc, đoán trước được những gì sẽ xảy ra với nhân dân ta khi nghe tin quân Thanh tấn công vào miền Bắc đất nước ta, nhận thấy được mối nguy hại cận kề, sự tàn khốc mà quân Thanh sẽ gây ra cùng với sức mạnh của chúng ông đã lên ngôi hoàng đế tự mình dẫn quân ra Bắc ngăn chặn mối nguy hại đó, một con người tài ba có tài thao lược, con người có thể thấu hiểu lòng dân, thấu hiểu lòng binh sĩ, những lời lẽ của ông khích lệ mạnh mẽ tình yêu dân tộc, sức mạnh, nỗi khát khao trong lòng binh sĩ. Không chỉ thế ông còn có tầm nhìn xa trông rộng, biết cách chọn người tài, đứng đầu nhưng vẫn lắng nghe ý kiến từ nhiều phía để có cái nhìn đúng đắn nhất về sự việc.
Đặc biệt mưu lược hơn người của Quang Trung thể hiện trong cách ông cầm quân, cách mà ông lãnh đạo binh sĩ của mình tiến công thần tốc ra Bắc, cùng với chiến thuật được lên trước đó vô cùng tinh vi, không có một kẽ hở nào trước cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi, sự tư duy khi ông cho người ghép ván, lấy rơm dấp ván đánh vào tâm lí quân địch khiến chúng hoảng sợ dẫm đạp lên nhau chạy về nước trước sự xuất hiện bất ngờ của quân ta, tính chất bất ngờ là vô cùng quan trọng trong trận thắng lần đó, sự kiêu căng chủ quan vì sức mạnh của bản thân mà coi thường quân dân ta đã dẫn tới thất bại của quân Thanh. Lúc quân thanh còn kiêu ngạo cả tướng lẫn quân cũng là lúc lực lượng của ta chuẩn bị chu đáo, biến đổi từng ngày một, không khinh thường địch, tinh thần dân tộc đồng lòng của nhân dân cũng là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới những trận thắng tiếp theo. vừa ca ngợi mưu trí song toàn của Quang Trung các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái cũng đã rất tinh tế trong tái hiện lại thảm cảnh vô cùng nhục nhã của bè lũ vua quan tướng Ngô Sĩ Nghị và sự mục nát, yếu ớt không có tinh thần của dưới thời vua Lê Chiêu Thống, những con người bất tài vô dụng đó người thì theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn, người thì tháo chạy không kịp mặc giáp, không kịp đóng yên ngựa.
Ngòi bút tinh tế của mình các tác giả đã dựng lên một thảm cảnh vừa buồn cười vừa tủi nhục của chế độ mục nát, đồng thời ca ngợi sự tài tình của vua Quang Trung, tinh thần dân tộc của quân dân ta kiên cường, phản ánh trận chiến ác liệt và vẻ vang của chiến thắng trong giai đoạn lịch sử không thể quên.
Bài mẫu số 3
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là những ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. Đoạn trích thuộc hồi thứ mười bốn đã tái hiện chân thực vẻ đẹp anh dũng, hào hùng, tài trí song toàn của người anh hùng áo vải Quang Trung. Đồng thời cho thấy sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và bè lũ cướp nước.
Trong tác phẩm nổi bật lên hai chân dung chính: chân dung của vị anh hùng Nguyễn Huệ và chân dung của bè lũ cướp nước cùng vua tôi Lê Chiêu Thống. Với mỗi nhân vật tác giả có cách khắc họa riêng, hết sức tài tình vừa đảm bảo tính chân thực, khách quan vừa thể hiện được cái tôi cá nhân tác giả.
Trước hết về người anh hùng Quang Trung, ông là nhà lãnh đạo quyết đoán, có trí tuệ sáng suốt. Ngay khi vừa hay tin quân Thanh tiến đến Thăng Long, ông đã nhanh chóng quyết định lên ngôi vua, để danh chính ngôn thuận đem quân tiến ra Bắc. Cách làm việc của ông hết sức nhanh chóng, quyết đoán, có tầm nhìn xa, bởi nếu ông không lên ngôi vua thì danh không chính, ngôn cũng không thuận thật khó có thể làm việc lớn.
Lên ngôi vua cũng cách thức làm yên lòng dân và ông ngay lập tức cầm quân ra Bắc. Trên đường tiến quân ra Bắc ông gặp Nguyễn Thiếp một người tài giỏi, mưu lược, ông trân trọng, lắng nghe kế sách của Nguyễn Thiếp. Ông là người rất trân trọng và ủng hộ người tài. Ra đến Nghệ An ông đã tuyển được hơn một vạn tinh binh, mở cuộc duyệt quân lớn. Trước khi cầm quân ra Bắc ông còn đọc lời phủ dụ binh lính, vạch trần âm mưu xâm lược hiểm độc của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt xấu xa, tàn ác của kẻ thù; đồng thời cũng nêu lên ý thức kỷ luật cho binh sĩ.
Những lời ông nói như sấm vang, chớp giật, có tác động to lớn trong việc khích lệ tinh thần binh sĩ. Ông còn là người hết sức sáng suốt, có tầm nhìn ra trông rộng. Là một người tài giỏi, Quang Trung đã đoán biết được tình hình của giặc, lập kế sách tiến đánh và khẳng định chỉ trong vòng mười ngày là giành lại được kinh thành Thăng Long. Ông tiến hành một cuộc hành binh thần tốc, 25 tháng Chạp xuất quân ở Phú Xuân, 30 ông đã đến Tam Điệp ở Ninh Bình.
Và ngày đêm 30 bắt đầu tiến quân ra thành Thăng Long. Đây quả là cuộc hành quân thần tốc, có một không hai trong lịch sử nước nhà. Không chỉ vậy ông còn nhìn rõ bản chất quân địch, là nước lớn, sau khi thua nhất định sẽ quay lại báo thù. Bởi vậy, ông đã có kế sách ngoại giao ngay sau khi dành được chiến thắng. Ông quả là một bậc kỳ tài, thấu hiểu những gian nan, thử thách mà dân tộc phải đối mặt, đưa ra những phương hướng, chiến lược đứng đắn, là cơ sở cho sự đại thắng của quân dân ta.
Quang Trung còn có tài dụng binh như thần. Ông thấu hiểu chỗ mạnh chỗ yếu của các tướng sĩ: trách mắng Sở và Lân rất nghiêm khắc cho họ thấy mức độ nghiêm trọng của sự việc, nhưng đồng thời cũng khen ngợi hành động của họ để bảo toàn lực lượng. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm về sự mưu trí, mưu lược hơn người. Ông quả là một tướng tài biết nhìn việc, nhìn người.
Tài cầm quân đã xuất sắc, tài đánh trận của ông cũng không hề kém cạnh. Để khích lệ lòng quân ông cho binh sĩ ăn tết trước, hẹn mùng 7 vào Thăng Long mở tiệc lớn. Không những vậy ông còn đảm bảo được yếu tố bất ngờ, bắt sống hết quân do thám và tân binh của giặc, khiến các đồn không thể báo tin cho nhau. Đảm bảo yếu tố bất ngờ, nhằm đúng tết nguyên đán tiến đánh kẻ thù, bởi lúc này chúng đang ngủ quên trên chiến thắng, say mê hưởng lạc, không phòng bị.
Ông thay đổi chiến thuật linh hoạt: trận Hà Hồi dùng nghi binh, đánh Ngọc Hồi cho quân chế tạo những tấm ván ghép bằng rơm ướt, nhờ vậy mà giảm được thương vong. Đặc biệt hơn nữa ông còn đích thân ra trận, chỉ huy một hướng tiến công. Quang Trung là hội tụ vẻ đẹp, tinh hoa và khí phách của dân tộc.
Trái ngược với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của vua Quang Trung bọn quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại. Tôn Sĩ Nghĩ ban đầu tiến vào nước ta một cách dễ dàng nên luôn kiêu căng tự mãn. Không nắm rõ tình hình, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc. Hắn còn là kẻ tham sống, sợ chết, chưa đánh đã sợ mất mật mà bỏ chạy: “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”. Những kẻ khác kẻ thì đầu hàng, kẻ thắt cổ tự vẫn.
Thật là một bọn ô hợp, hèn nhát và bất tài. Ở đoạn văn này ngòi bút miêu tả được tác giả phát huy hết tác dụng, kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho thấy sự hoảng hốt và thất bại thảm hại của kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy giọng điệu hả hê, sung sướng trước thắng lợi của quân ta và sự đại bại của quân giặc.
Còn về phía vua tôi Lê Chiêu Thống, khi xảy ra biến loạn, quân Thanh tan rã thì vô cùng sợ hãi, bỏ chạy, thậm chí còn cướp cả thuyền của dân để qua sông. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, trang phục như người Mãn. Thật đáng thương thay từ một bậc quân vương đứng đầu hàng vạn người, vậy mà chỉ vì quyền lợi của bản thân và dòng họ, Lê Chiêu Thống đã bán nước nên phải chịu nỗi nhục vong quốc, nắm xương tàn phải bỏ lại nơi đất khách quê người.
Mặc dù cùng miêu tả về sự thảm bại, nhưng nhịp điệu ở đoạn văn này nhịp điệu lại chậm hơn. Thể hiện sự xót thương, ngậm ngùi cho số phận của Lê Chiêu Thống. Bởi dù sao ông cũng là một cựu thần trung thành của nhà Lê, trước sự sụp đổ triều đại mình tôn thờ không khỏi không ngậm ngùi, chua xót.
Tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn hấp dẫn người đọc ở nghệ thuật trần thuật. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng mốc lịch sử, cho thấy không khí khẩn trương, gấp gáp và chiến thắng hào hùng của quân ta. Nghệ thuật miêu tả nhân vật sinh động, hấp dẫn. Từng trận đánh được miêu tả chi tiết, cho thấy khí thế hừng hực của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù. Nghệ thuật đối lập giữa ta và địch: một bên đớn hèn, nhát chết một bền xông xáo, mưa chí, tài lược.
Qua hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất thống chí, tác giả đã cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm, mưu lược của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng oanh liệt vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy sự thất bại thảm hại của nhà Thanh, và sự đáng thương của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Bài mẫu số 4
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô Thi viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong những thời điểm nối tiếp nhau.
Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí ông học giỏi nhưng không đổ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ấn mình ở vùng Kim Bảng, Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhiệm làm Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện của vương triều nhà Lê, có lẽ là vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê, về hình thức, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, những các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng nội dung tác phẩm về cơ bản vẫn giữ được tính nhất quán.
Trong văn học Việt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô to lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỷ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
Khởi đầu câu chuyện là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, chỉ còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là: Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, Vua Lê Chiêu Thống đê hèn, cúi đầu khuất phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng mục ruỗng sắp sụp đổ. Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cùng chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.
Bên phủ Chúa, Trịnh Sâm sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê Đặng Thị Huệ nên Chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên loạn từ trong nhà loạn ra. Anh em chém giết lẫn nhau. Kiêu binh ỷ thế lộng hành, Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời của phong trào Tây Sơn là một tất yếu.
Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyền dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mi. Nối bật lên trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh ngời sáng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ – người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.
Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiểu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh Gần vương đế chống lại.
Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh, xin đưa quân sang đánh.
Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.
Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.
Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tâu với thái hậu về thái độ chủ quan coi thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng thẳng vào mặt nên sợ hãi lui về.
Ở hồi thứ mười bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc to lớn, các tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, miêu tả sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là con người tài ba, hành động một cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin giặc Thanh dã chiếm đến tận Thăng Long. Nguyễn Huệ đã thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả. Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội,… của mình.
Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái – một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm quân “bách chiến bách thắng”, tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là người rất mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc: hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một người cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào.
Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm đến ý dân, lòng dân. Khi vị cống sĩ nói: “Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan”, ông “mừng lắm”, không chỉ vì người cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ trương của ông, quyết tâm của ông đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ông cho tuyển quân “chưa mấy lúc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ”.
Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lý. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói đều giảm đi, để hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lý và trên hết là hợp với lòng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận rất khẩn trương, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhưng không vì thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết sức nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi,… Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách giẫm đạp lên nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của đám quan quân nhà Thanh. Ra đi “binh hùng tướng mạnh”, vậy mà chưa đánh được trận này đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trước đó là hai – mươi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhưng trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi miêu tả tài “xuất quỷ nhập thần” của quân Tây Sơn, các tác giả viết: “Thật là: Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”… Ngược lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…”. Đó không còn là giọng của một người ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lược ngoại bang, Vốn trước ngạo nghễ là thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược, hèn hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà lịch sử dành cho lũ bán nước và lũ cướp nước.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kỳ tích ấy là Quang Trung – Nguyễn Huệ, vị “anh hùng áo vải” vừa có tài thao lược vừa luôn hết lòng vì dân, vì nước. Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngô gia văn phái – nhóm tác giả đã vượt qua những tư tưởng phong kiến có hữu để tái hiện lịch sử một cách chân thực.
Bài mẫu số 5
Văn học trung đại Việt Nam khi nhắc đến thể chí không thể không nhắc đến tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tác phẩm không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà cùng với ngòi bút chân thực sắc sảo đã cho hậu thế thấy được bản lĩnh của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, cùng sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh. Điều này đã được phản ánh rõ nét trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm này.
Tác phẩm viết theo thể “chí”: một thể văn cổ ghi chép sự vật, sự việc, vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử. (Đây thực chất là một tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi.) Tác phẩm gồm 17 hồi, 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi tiếp theo do Ngô Thì Du viết, 3 hồi còn lại do người khác viết. Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn.
Đó là thời kỳ thống nhất đất nước thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh. Đoạn trích là Hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài. Văn bản là lời ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của của Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn và sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh, bè lũ Lê Chiêu Thống.
Mở đầu đoạn trích là sự xuất hiện của Nguyễn Huệ. Ngược về những phần trước, có thể thấy Nguyễn Huệ được miêu tả hết sức tài năng, lẫm liệt: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh lại có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết”. Chỉ bằng những lời hết sức ngắn gọn của người hầu gái trong cung vua ta đã phần nào nhận thấy tài năng hơn người của Nguyễn Huệ.
Quân Thanh kéo vào Thăng Long, bành trướng thế lực, nghe được tin đó Nguyễn Huệ hết sức tức giận, định cầm quân đi tiêu diệt ngay lũ nghịch thù. Nhưng nghe theo lời khuyên của các tướng sĩ, tại núi Bân ông đã tế cáo trời đất lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lệnh xuất quân đi ngay. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi vua đã tạo nên cơ sở vững chắc cả về tình và lý, qua đó thấy được tài năng của ông. Dù là người tài năng xuất chúng nhưng ông cũng rất biết lắng nghe ý kiến người khác, cân nhắc kỹ lưỡng trong mọi hành động.
Tài năng cầm quân, thiên tài quân sự trong ông được chứng minh qua cuộc hành quân thần tốc ra kinh thành Thăng Long. Ông lựa thời cơ là những ngày giáp tết Nguyên Đán, khi kẻ địch đang mải mê trên chiến thắng, lo chuyện ăn chơi hưởng lạc, không phòng bị để tiêu diệt chúng. Vừa đi ông vừa chiêu mộ quân sĩ, chỉ trong vài ngày ngắn ngủi Nguyễn Huệ cùng đội quân của mình đã ra đến Bắc Hà.
Trước khi chuẩn bị tiến đánh, trong bài dụ của mình ông đã khích lệ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc cho tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người minh không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi […] dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Đọc lời dụ của ông ta không khỏi nhớ đến bài Hịch tướng sĩ hào hùng của Trần Quốc Tuấn, lời dụ của ông cũng có sức thuyết phục không kém.
Trong cách dùng người, Nguyễn Huệ cũng tỏ ra là người hết sức xuất sắc. Ông nhận thấy được điểm yếu của mình, Sở và Lân chỉ là kẻ hữu dũng, vô mưu bởi vậy ông để lại Ngô Thì Nhậm mưu lược hơn người. Và quả nhiên nhìn nhận của ông hoàn toàn chính xác. Ngô Thì Nhậm phát huy bản thân, “biết nín nhịn để tránh mũi nhọn” của kẻ thù, tránh tổn thất cho quân ta. Đồng thời cũng không trách mắng Sở và Lân.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, dự đoán chính xác khả năng chiến thắng của ta và tiên liệu những công việc ngoại giao cần làm sau chiến thắng. Ông cử Ngô Thì Nhậm, khéo ăn khéo léo để thương thuyết với kẻ thù, để nhân dân ta nghỉ sức, xây dựng đất nước. Ông quả là một vị vua vừa có tâm lại vừa có tầm.
Đẹp đẽ nhất là khung cảnh Quang Trung lâm trận, suy nghi, khí thế bừng bừng, một mình một mũi tiến quân, tiêu diệt quân giặc. Với tinh thần tôn trọng lịch sử, sự ngưỡng mộ, lòng khâm phục chân thành với vua Quang Trung bằng ngòi bút chân thực, đan xen kể và tả sinh động, các tác giả Ngô gia văn phái đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.
Bên cạnh một Quang Trung uy nghi lẫm liệt trong chiến trận lại là những kẻ bán nước hèn nhát – vua tôi Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Và lẽ tất nhiên, khi bán nước họ sẽ chịu nỗi sỉ nhục và sự đau đớn. Từ một ông vua Lê Chiêu Thống trở thành kẻ số phận hết sức bi thảm. Phải chạy trốn sang phương Bắc và chết ở nơi đất khách quê người.
Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung kẻ thù xâm lược, cụ thể qua hình ảnh kẻ cầm đầu - Tôn Sĩ Nghị. Hắn ta là kẻ kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân vào Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm ngủ” như “đi trên đất bằng”, cho là vô sự, không đề phòng gì.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì hèn nhát, vô trách nhiệm thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao; quân thì “ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe thấy đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Miêu tả sự trốn chạy, đại bại của quân tướng nhà Thanh với âm điệu nhanh, mạnh, gấp gáp gợi sự thất bại liên tiếp, thể hiện tâm trạng hả hê, sung sướng của người cầm bút.
Bằng quan điểm lịch sử chân chính của các sử gia, Ngô gia văn phái đã ghi lại một cách chân thực và sắc nét hình ảnh hào hùng của người anh hùng áo vải Quang Trung. Bên cạnh đó là sự thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống và sự thất bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh. Đoạn trích được trần thuật theo dòng thời gian, giọng điệu linh hoạt, khi trầm buồn, khi gấp gáp, hối hả đã cho thấy tài năng kể chuyện bậc thầy của tác giả.
Bài mẫu số 6
"Hoàng Lê nhất thống chí" là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong " Ngô gia văn phái". Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868-1802) như : loạn kiêu binh, triều Lê- Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn.
Sự sụp đổ không thể nào cưỡng đại của triều đại Lê- Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua "Hoàng Lê nhất thống chí". Đặc biệt là Hồi thứ 14 đã được thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.
Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử oanh liệt và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" mở đầu Hồi thứ 14 đã viết:
"Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài"
Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi Hoàng đế "tế cáo trời đất cùng các thần Sông, thần Núi", lấy niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ.
Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đến quân Thanh, vạch trần âm mưu của bọn chúng "mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, kêu gọi tướng sĩ đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công lớn".... Nhà Vua chia quân ra làm năm doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân ra làm năm đạo, cho quân ăn tết Nguyên Đán trước, "bảo kín" với các tướng soái đến tôi 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long "mở tiệc ăn mừng".
Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn tết Nguyên Đán trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo nên yếu tố bất ngờ đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng "chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc" đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.
Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra: "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét."
Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh " rụng rời sợ hãi" phải đầu hàng. Dùng kỳ mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn thành trận chữ "nhất" xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi.
Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi độc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống Đầm Mực vị quây Tây Sơn " lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng Kinh thành Thăng Long đúng trưa mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. trước kế hoạch hai ngày. Có tài thao lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.
Các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí" đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với nhà Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, học đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng nên một tượng đài kỳ vĩ, tráng lệ của người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài "Ai tu vãn" khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:
"Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình."
Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao người ngưỡng mộ. Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" đã miêu tả và nêu bật sự thảm hại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua phản nước hại dân.
Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long "không mất một mũi tên, như vào chỗ đông người", hắn vô cùng "kiêu căng buông tuồng". Bọn tướng tá chỉ biết "chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân". Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để "bắt sống, không một tên nào lọt lưới".
Thế nhưng, trước sự tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị dập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc bỏ mạng ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị " sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp...nhằm hướng Bắc mà chạy". Quân tướng " hoảng hồn, tan tác bỏ chạy". Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông. Cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!
Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến đang trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, " thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc". Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần " than thở, oán giận, chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị "cũng lấy làm xấu hổ". Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa "lại xin sang hầu tướng quân", nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: "Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!"
Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc. Đọc Hồi thứ 14 của " Hoàng Lê nhất thống chí", ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của Thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào ùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.
Bài mẫu số 7
Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Sự nghiệp văn chương của nhóm tác giả này nổi bật và tiêu biểu nhất với Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn lịch sử chương hồi nổi tiếng. Tác phẩm khái quát lại một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với những biến cố đầy biến động từ khi chúa Trịnh Sâm lên ngôi đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.
Hồi thứ mười bốn đã khắc họa một cách chân thực về sức mạnh, tinh thần quật khởi của dân tộc ta trước cảnh thù trong giặc ngoài cùng với chiến công lừng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lê Chiêu Thống đã kéo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu sang xâm chiếm nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị đã đóng chiếm được Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống đỡ.
Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Huệ thể hiện như một người anh hùng của toàn thể dân tộc. Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 25, "tế cáo đất trời cùng các non sông, thần núi" rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu giữ gìn, bảo vệ đất nước.
Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ mở tiệc thiết đãi quân nhân, dự định vào ngày mồng bảy thì vào thành để mở tiệc mừng. Có thể thấy rằng Nguyễn Huệ là một con người có hành động quyết đoán, mạnh mẽ, có tư duy lớn trong việc nhận biết tình hình của ta và của địch. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết địch biết ta, tài thao lược vô cùng tài giỏi. Những dự định trong cuộc kháng chiến được Nguyễn Huệ tiên đoán như một vị thần.
Trong kháng chiến, hình tượng người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên với tư thế, tầm vóc lớn lao, oai phong. Quân Thanh khi vừa thấy bóng dáng nhà vua đã chạy tán loạn tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, quân ta vây kín làng rồi bắc loa thông báo khiến quân Tanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; mùng 5 Tết tiến đến Ngọc Hồi, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến vào đồn.
Trước tình thế đó, mọi sự phản công của kẻ thù đều vô hiệu hóa. Quân Thanh đã tự hại mình khi dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta lung lay, rối ren nhưng lại tự "gậy ông đập lưng ông" đối với chiến thuật này. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến kết thúc với hình ảnh "quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại".
Quang Trung cưỡi voi vào thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu.
Trước tình cảnh ấy, quân Thanh thua thảm hại khi mừng vui yến tiệc, không lo việc lớn. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết, sống động hình ảnh quân Thanh bị thua tan tác, chạy loạn đã thể hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của quân Thanh. Hoàn toàn ngược lại trước sự thua trận của quân Thanh, quân ta mạnh mẽ, như "tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên".
Sự khắc họa về cảnh thua trận đến thảm hại của quân tướng nhà Thanh được Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy" khắp nơi, tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.
Đoạn trích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích đặc sắc, hay và độc đáo, vô cùng sinh động. Có rất nhiều những điểm nhấn về nghệ thuật đáng lưu ý trong đoạn trích, góp phần làm nổi bật được nội dung câu chuyện. Giọng điệu lúc nhanh lúc chậm thể hiện sự biến đổi linh hoạt trong cách kể chuyện khiến người đọc như đang sống trong từng trang văn của cuộc kháng chiến hào hùng do Quang Trung - Nguyễn Huệ thao lược.
Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật với những nét nổi bật, đặc sắc. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống cùng lũ quân Thanh đều thất bại thảm hại. Trong khi đó, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện lên với tư tưởng, tầm vóc hiên ngang, bất khuất.
Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" của Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy được những âm mưu tàn độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược, mưu tính tuyệt vời của một con người kiệt xuất vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Bài mẫu số 8
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử biết bao thăng trầm, có những sự kiện lớn được lưu vào sổ sách cũng như dựa vào đó làm nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Và thời kì những năm cuối thế kỉ XVIII cuối thế kỉ XIX, đã có sự kiện lớn, và đã được các nhà văn Ngô gia văn phái ghi chép lại thông qua tác phẩm " Hoàng Lê nhất thống chí". Có nhận xét rằng: "Hoàng Lê nhất thống chí" của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều đình Lê. Điều đó đã mang lại những chi tiết thực và hay. Ta có thể thấy rõ điều đó qua hồi 14 của tác phẩm.
Ngô gia văn phái là tập hợp các anh em nhà họ Ngô làm việc cho triều đình nhà Lê. Khi ấy triều đình nhà Lê đang ở thế suy tàn, thối nát,vì vậy nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy và tiêu biểu là phong trào Tây Sơn của anh em nhà Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Các nhà văn họ Ngô đã tái hiện lại một cách chân thực nhất và khách quan nhất về thời kì ấy.
Hồi thứ 14, tác giả đã phác họa lại một cách sinh động nhất về chiến thắng lẫy lừng của Nguyễn Huệ cùng với đó là sự thất bại thảm hại của quân Thanh và vua Lê bán nước. Như đã biết, tác giả họ Ngô làm việc cho triều Lê chắc hẳn phải thiên vị vua tôi, phải coi thường nghĩa quân của Nguyễn Huệ - coi đó là giặc cỏ, nhưng thông qua hồi thứ 14 này, ta có thể thấy rằng họ nhìn mọi sự việc diễn ra vô cùng khách quan, nhận diện được đâu là tốt, xấu. Chính vì vậy, mà những trang lịch sử được viết ra đã mang lại những chi tiết "thực và hay" đến thế.
Nổi bật nhất trong hồi 14 này đó hình ảnh người anh hùng áo vải cầm quân đầy tài năng, đó chính là Nguyễn Huệ. Ông có cái nhìn tổng quan về thời cuộc, biết nhìn xa trông rộng, tính toán chính xác trong từng bước đi. Khi nghe tin quân Thanh đã kéo đến thành Thăng Long mà không tốn một chút công sức, ông tức giận lắm, nhưng ông vẫn không hề nao núng, mà quyết muốn cầm quân đi ngay. Chỉ trong vòng một tháng, ông đã làm được bao nhiêu việc, từ tế cáo trời đất, lên ngôi vua và lấy hiệu Quang Trung, bởi ông muốn có được lòng tin của dân, lấy danh nghĩa để dẹp loạn phương Bắc. Liền tiếp đó, ông đã cầm quân đi ngay, trên đường đi ông không ngừng tuyển thêm binh sĩ tinh nhuệ, đào tạo để thành đội quân. Những việc làm đó thật nhanh chóng, kiên quyết cho thấy được sự quyết liệt và sáng suốt của nhà vua Quang Trung. Ông họp bàn với các tướng sĩ đưa ra các chiến lược vậy mà ông đã có một cái nhìn khẳng định "sau mười ngày sẽ đại phá được quân Thanh". Thêm vào đó, ông còn nghĩ cách để hòa hoãn, tìm cách ngoại giao lại với quân Thanh bởi ông cho rằng đất nước cần phải được yên ổn, xây dựng phát triển, xây dựng lực lượng, tạo những đội quân mạnh cho chính đất nước mình.
Từ trước cuộc chiến hay kể cả khi bước vào cuộc chiến, Quang Trung đã chứng minh được mình là một nhà quân sự tài ba. Ông có một tài năng dùng binh như thần. Ông điều quân thần tốc đi từ Huế vào ngày 25 tháng Chạp đến Nghệ An vào ngày 29 tháng Chạp vượt qua 350km đường lẫn cả núi đèo, rồi ra đến Tam Điệp. Trong cuộc hành trình ấy ông còn tổng duyệt binh và đến 30 tháng Chạp đội quân đã đến thành Thăng Long. Điều ngạc nhiên là tất cả đội quân của ông đều đi bộ. Trải qua bao khó khăn gian khổ trên cuộc hành trình dài mà đội quân của ông vẫn chỉnh tề, cờ nào đội đấy vẫn nghiêm chỉnh, điều này càng khẳng định thêm tài cầm quân của ông. Điều đó càng dễ hiểu khi đội quân đến thành Thăng Long và đánh tan quân giặc trước dự kiến đó hai ngày. Ông tự mình chỉ huy, xuất thân ra trận cùng các binh lính của mình và đã đạt được thành công như mong đợi. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng, Ngọc Hồi thì bị đập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tự, hàng vạn quân giặc đã phải bỏ mạng. Tôn Sĩ Nghị thì "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên... cứ nhắm hướng bắc mà chạy". Một khung cảnh náo loạn của bọn giặc cướp nước, đó là cái giá mà bọn chúng phải trả vì tội xâm lược, phá hạnh phúc bình yên của dân tộc khác.
Bọn Việt gian bán nước cũng phải chịu số phận tủi nhục không kém, trên đường bỏ chạy, chúng hóa thành bọn cướp, cướp thuyền của dân để chạy trốn sang bên phía Bắc mà lánh nạn.
Hồi thứ 14 vô cùng đặc sắc bởi nó đã vẽ nên khung cảnh toàn diện nhất của cuộc chiến, nó nêu lên một chiến thắng vẻ vang của dân tộc,và cũng là lời nhắc nhở, cảnh cáo đến những kẻ ngoại xâm, hay bán nước sẽ phải trả giá cho những tội lỗi mà chúng đã làm. Bằng tài năng kể chuyện, nhà văn họ Ngô đã miêu tả chân thực từng nhân vật cũng như các sự kiện cao trào và vô cùng hấp dẫn. Vì vậy "Hoàng Lê nhất thống chí" xứng đáng sống mãi với lịch sử của dân tộc. Nó mãi mãi là những trang viết "thực và hay".
Xem thêm những bài văn mẫu 8 hay khác:
TOP 10 Bài phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ (2024) SIÊU HAY
TOP 20 bài Phân tích bài thơ Đi đường 2024 CỰC CHI TIẾT
TOP 20 bài Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 2024 SIÊU HAY
TOP 30 bài Phân tích Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi) 2024 HAY NHẤT
TOP 30 bài Phân tích bài thơ Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 2024 SÚC TÍCH NHẤT