Dàn ý phân tích nhân vật ông Sáu
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm “Chiếc lược ngà”:
- Truyện được viết năm 1966 trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
- Một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng viết về tình phụ tử trong những tháng ngày chiến tranh ác liệt. Gửi gắm thông điệp phê phán chiến tranh.
- Giới thiệu về nhân vật ông Sáu: Người cha bình dị nhưng lại yêu con bằng thứ tình cảm thiêng liêng, vô bờ bến.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh, xuất thân của ông Sáu
- Ông Sáu là một người nông dân Nam Bộ, tham gia kháng chiến từ năm 1946.
- Tham gia chiến đấu khi con gái là bé Thu chưa được một tuổi, lúc con chạc tuổi mới được nghỉ về thăm quê ba ngày.
b. Tình cảm ông dành cho bé Thu
- Trong những ngày phép về thăm quê:
- Hành động nôn nóng được gặp đứa con gái mà mình bấy lâu thương nhớ: nhảy lên bờ, bước vội, kêu to gọi con.
- Bất ngờ, bàng hoàng, trạng thái sững sờ khi con bỏ chạy: Mặt sầm lại, hai tay buông xuống.
=> Đang xúc động vì thời khắc được gặp lại đứa con mà bấy lâu mình vẫn luôn thương nhớ, ông sững sờ vì tất cả những gì nhận được là sự sợ hãi, xa lánh của bé Thu. Tâm trạng ông từ trông chờ trở nên bàng hoàng đến đau đớn.
- Những lúc ở bên con:
- Ông Sáu dùng những ngày phép chỉ để ở bên con, ông trông chờ một tiếng “ba” thốt lên từ đứa con cách xa mình bấy nhiêu năm trời nhưng tất cả những gì ông nhận lại được là đứa con gái nhất quyết không nhận mình là ba.
- Ông giả vờ không nghe khi con bé nói trỏng, không giúp con chắt nước cơm, ngay cả việc gắp thức ăn cho con là cả một quá trình nỗ lực, cân nhắc.
- Thế nhưng dù ông có làm cái nào, từ cương đến nhu, bé Thu vẫn nhất nhất không chấp nhận ông là ba. Cảm xúc chất chứa dồn nén đau đớn đến tột cùng, ông đánh con.
- Thời khắc chia ly:
- Bé Thu đến thời khắc này vẫn cương quyết không nhận ông.
- Lúc sắp đi, ông nhìn nó với ánh mắt trìu mến pha lẫn với những buồn rầu, bất lực đan xen.
- Khi con gái gọi ông một tiếng “ba” và ôm chặt lấy ông, ông Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau đi dòng nước mắt chất đầy cảm xúc.
- Ôm hôn nhẹ lên tóc con như một lời từ biệt.
=> Vượt qua thách thức của chiến tranh, vượt qua cả sự bào mòn của thời gian, tình phụ tử vẫn vượt lên trên tất cả. Con người rồi vẫn sẽ sống thật với cảm xúc của mình, vẫn chấp nhận và yêu thương người thân bất chấp sự điêu tàn của thời gian.
- Những ngày ông Sáu ở căn cứ
- Nỗi nhớ con da diết hòa quyện với những ân hận vì đã đánh con.
- Những ngày ở căn cứ, ông tìm cho bằng được mảnh ngà voi để làm lược tặng con.
- Tỉ mỉ từng ngày làm chiếc lược, mỗi khi nhớ con lại mang ra ngắm, cài lược lên tóc.
- Ông hy sinh khi chưa kịp tặng con chiếc lược ngà. Những giây phút cuối đời ông vẫn chỉ nhớ đến đứa con, ông trao chiếc lược cho đồng đội.
=> Tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt. Chiếc lược là sự kết tinh tình cảm, nỗi nhớ nhung cũng như những ân hận của ông, từng chi tiết trên cây lược đều là tình cảm mà ông tỉ mẩn khắc vào. Chiếc lược cũng là tình yêu của ông dành cho con, dẫu ông không còn nhưng tình yêu vẫn còn sống mãi.
3. Kết bài
- Nhận xét lại nhân vật ông Sáu.
- Khẳng định lối viết văn tài ba của Nguyễn Quang Sáng, chân chất, thật thà, đậm chất Nam Bộ nhưng tình cảm sâu sắc.
Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật ông Sáu
Một số bài văn mẫu hay phân tích nhân vật ông Sáu
Bài mẫu số 1
"Chiếc lược ngà" là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện về tình cha con trong chiến tranh đã khiến cho người đọc không khỏi cảm động. Nhân vật người cha - ông Sáu trong tác phẩm này đã được nhà văn xây dựng rất thành công. Đó là một người lính gai góc nhưng cũng là người cha hết mực yêu thương con gái mình.
Ông Sáu là một người lính đã cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Trong những năm khói lửa ác liệt, ông đã bị lính Mỹ bắn bị thương, để lại vết thẹo dài trên mặt. Mỗi lần ông xúc động, vết thẹo lại giật giật trên mặt trông rất đáng sợ, dữ dằn. Đó là minh chứng của chiến tranh để lại, cũng là chiến tích được lưu trên gương mặt của người lính anh dũng, quả cảm. Khi về thăm nhà, tuy rất muốn được ở cùng con thêm vài ngày nhưng cuối cùng ông Sáu quay lại chiến trường đúng thời hạn được giao. Không vì việc riêng mà làm chậm trễ nhiệm vụ của đất nước. Từ đó, ta có thể thấy ông Sáu là người dũng cảm, gan dạ, luôn hết mình vì sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc.
Thế nhưng người lính nào cũng có nỗi niềm riêng. Ông Sáu cũng vậy, ông có một đứa con gái nhưng phải xa con khi bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông Sáu nôn nao trong lòng, mong chờ được gặp bé Thu. Xuồng vào bến, ông thấy một bé gái chơi ở trước sân nhà và đinh ninh rằng đó là con mình. Không thể chờ xuồng cập bến, ông vội nhảy lên bờ, chạy về phía con và gọi to tên con. Ông Sáu xúc động, giang tay đưa về phía con giọng run run: "Ba đây con! Ba đây con!". Tưởng rằng con bé sẽ nhận ra ba nó, sẽ chạy lại ôm lấy ba nhưng sự thật khiến ông Sáu hoàn toàn hụt hẫng. Bé Thu có vẻ sợ hãi, chạy đi rồi hét gọi má. Ông Sáu thất vọng, hai tay buông thõng, dường như có gì đó mất đi trong trái tim.
Mấy ngày ở nhà, dù làm thế nào con gái cũng không chịu gọi ông Sáu là ba: Bảo gọi ba ra ăn cơm thì con nói trổng. Có hôm nồi cơm đang nấu phải chắt nước, con bé không là được phải nhờ người lớn. Nó cũng không chịu kêu ba mà chỉ nói: "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái", "Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!". Tuy ông Sáu luôn luôn tìm cách để hai ba con được gần gũi, thân thiết nhưng bé Thu luôn tránh né, khiến cho ông vô cùng buồn rầu. Trong bữa cơm, ông Sáu thấy miếng trứng cá ngon nên đã gắp cho con. Thấy vậy, con bé hất cái trứng ra trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Ông Sáu vừa tức giận, vừa xấu hổ, không nghĩ rằng tình yêu thương mà ông dành cho con bé lại bị đáp trả như thế. Quá giận dữ, ông vung tay đánh vào mông con và hét lên "Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?". Con bé ngồi im, không nói, đầu cúi gằm xuống. Ông Sáu bỗng hối hận, chỉ vì vài giây nóng giận không suy nghĩ mà lỡ đánh con.
Hôm sau, khi ông Sáu phải quay lại chiến trường. Vì vẫn đau đáu chuyện tối qua nên ông Sáu chỉ nhìn con rồi nói khẽ: "Thôi! Ba đi nghe con!". Con bé bỗng thét lên "Ba" rồi chạy đến ôm chặt lấy cổ, không cho ba đi. Ông Sáu vỡ òa trong niềm hạnh phúc, niềm sung sướng, nhớ thương và nỗi ân hận đan xen hóa thành những giọt nước mắt. Ông rút khăn lau nước mắt, hôn lên mái tóc con rồi nói "Ba đi rồi ba về với con". Thật lòng, ông rất muốn ở lại với con bé, tận hưởng một chút tình cảm cha con nhưng chiến trường đang sôi sục, phải lên đường ngay. Ông Sáu đã hứa rằng khi trở về sẽ mua cho con một chiếc lược ngà. Cha con ông chia tay trong sự luyến tiếc, con bé ở lại, ông Sáu ra chiến trường.
Trong những ngày ở rừng, lòng ông Sáu đau đáu nỗi nhớ con và niềm ân hận khôn nguôi vì đã không kìm được tức giận mà đánh bé Thu. Cho đến một ngày, ông Sáu tìm được khúc ngà voi trong rừng. Ông vui sướng quyết định sẽ tự tay làm cho con một chiếc lược. Chiếc lược ngà làm xong, ông nâng niu nó như vật quý không bao giờ rời. Những đêm nhớ con, ông mang lược ra ngắm, trong lòng cũng nguôi đi phần nào nỗi ân hận, chỉ mong ngày thống nhất đến thật nhanh để cha con ông được đoàn tụ. Thế nhưng, số phận trớ trêu, ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn của địch. Bé Thu chưa kịp cảm nhận hơi ấm tình cha đã mất đi mãi mãi.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng nhân vật rất thành công nhờ những hành động, cử chỉ cùng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với người dân Nam Bộ. Có thể khẳng định rằng, "Chiếc lược ngà" là một truyện ngắn xuất sắc, làm nổi bật lên tình cha con ấm áp giữ bom đạn của chiến tranh.
Bài mẫu số 2
Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Qua nhân vật ông Sáu, nhà văn không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về sự khốc liệt và những đau thương mà chiến tranh mang lại mà còn khơi dậy những cảm xúc thật mềm mại, tha thiết về tình cảm gia đình trong trái tim của mỗi người qua câu chuyện cảm động của ông Sáu và bé Thu.
Trong hàng loạt các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cả trước và sau cách mạng tháng tám, bên cạnh các chủ đề xuyên suốt như chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự tàn khốc của chiến trường đổ lửa thì câu chuyện về những nỗi đau và nỗi bất hạnh mà con người phải gánh chịu trong chiến tranh cũng là một trong những đề tài được nhiều tác giả quan tâm, đặc biệt là những tác giả trẻ trưởng thành sau cách mạng. Trong đó Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất.
Ông Sáu tham gia kháng chiến khi con gái đầu lòng của ông - bé Thu còn chưa đầy một tuổi. Ông Sáu đi là biền biệt suốt 7, 8 năm trời, không có điều kiện để thăm đứa con bé bỏng của mình, chính điều đó đã kéo theo một loạt những bi kịch đến với cuộc đời lính đầy gian khổ của ông.
Khi được về thăm nhà, thăm con sau bao năm xa cách, mọi chuyện lại không như mong đợi, sự xa lạ, lạnh lùng của bé Thu là điều ông Sáu không thể ngờ tới, cái khoảnh khắc ông mong ngóng, đợi trông bấy lâu đã không xảy ra. Khi ông nhún chân nhảy lên bờ, bước những bước dài về phía đứa bé mặc áo bông đỏ, mái tóc ngắn ngang vai đang đứng bên kia bờ, tiếng kêu to "Thu, con!", chỉ khiến con bé "giật mình tròn mắt nhìn", "ngơ ngác, lạ lùng". Không có cái cảnh đứa bé xô vào lòng ông, ôm chặt lấy cổ ông như mọi người và ông Sáu vẫn tưởng. Nhưng ông Sáu vì quá xúc động và nhớ con, vẫn chưa kịp nhận ra sự khác lạ ấy, ông vẫn tưởng con bé chỉ là chưa nhận ra ông, nên vẫn tiếp tục tiến đến gọi bé Thu bằng chất giọng run run cùng khuôn mặt với vết sẹo đỏ bừng giật giật theo từng cơn xúc động của ông "Ba đây con!".
Trước cảnh tượng ấy, bé Thu bỗng tái mặt, chạy vụt đi vừa chạy vừa kêu thét lên đầy sợ hãi "Má! Má!". Cảnh tượng ấy đã giáng một đòn thật mạnh vào trái tim chất chứa đầy tình thương yêu của ông Sáu, khiến ông đau đớn, chua xót không thôi, "mặt anh sầm lại, hai tay buông xuống như bị gãy", đó là một cảm giác bất lực, thất vọng đến cùng cực của một người cha vốn dành trọn tình yêu cho con nhưng lại bị từ chối phũ phàng, đau đớn. Người lính đứng trước mưa bom bão đạn chưa từng nản chí, sợ hãi, nhưng đứng trước bi kịch gia đình, bi kịch tình cảm phụ tử lại trở nên yếu đuối và đáng thương, điều khiến người ta không khỏi thấy chạnh lòng, tủi phận.
Tuy nhiên tấn bi kịch của ông Sáu chưa dừng lại ở đó, mà nó còn tiếp diễn suốt trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, giày vò trái tim người lính tội nghiệp. Dù bé Thu từ chối nhận mình là ba, thế nhưng bằng tình yêu thương con sâu sắc, ông vẫn luôn tìm mọi cách để gần gũi con bé "suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, cứ ở bên cạnh vỗ về con bé". Nhưng thật xót xa canh càng vỗ về, càng cố gắng tiến lại con bé càng đẩy ông ra xa, ông chỉ mong con bé gọi một tiếng "ba", nhưng nó chưa từng mở lời lấy một lần, mà luôn tìm cách chống đối. Thậm chí để tránh phải gọi ông Sáu là "ba", khi bị mẹ ép gọi ba vào ăn cơm, bé Thu còn nói trổng "Vô ăn cơm!", ông Sáu giả vờ không nghe thấy để đợi con bé gọi tiếng ba thì trái lại bé Thu lại đổi cách gọi khác "Cơm chín rồi".
Trước sự ngang bướng và có phần hỗn hào của con bé ông Sáu không thấy tức giận mà chỉ "nhìn con rồi khe khẽ lắc đầu cười". Ông cười nhưng lòng đau đớn đến tột cùng, cái cảm giác nghẹn ngào không khóc được, nên đành phải cười vậy, cười cho bi kịch kỳ lạ của cuộc đời mình, bi kịch con không nhận cha, cười cho nỗi mong mỏi tiếng "ba" đến đáng thương của mình. Nhưng không vì thế mà ông Sáu tức giận, không vì thế mà thôi không cố gắng gần gũi con, ông vẫn kiên nhẫn để mong con bé thay đổi và đáp lại tình cảm của mình trong ba ngày phép ngắn ngủi.
Trong bữa cơm hiếm hoi có mặt đầy đủ cả gia đình sau bao năm xa cách, ông Sáu cố tìm cách quan tâm bé Thu bằng việc gắp cho con bé cái trứng cá. Nhưng con bé lại cầm đũa hất ra, làm vung vãi cơm ra khắp cả mâm. Có lẽ rằng sự vô tình và ngang bướng của bé Thu đã khiến ông Sáu không thể kiềm chế được mà ra tay phát vào mông nó "Sao mày cứng đầu quá vậy hả?". Nhưng có ai biết rằng, sau cái hành động ấy là biết bao nỗi đau đớn, tủi hờn của một người cha, một người đàn ông đang quằn quại trong bi kịch cuộc đời mình, bé Thu đau một, thì có lẽ ông đau mười, nỗi đau ấy không nằm trong da thịt mà quặn xoắn vào trái tim vốn đã có nhiều tổn thương của ông.
Như vậy đến một bữa cơm êm ấm quây quần gia đình, ôngh Sáu cũng không có được, những ngày phép của ông cũng đến hồi hết, ông lại phải đi hòa mình vào cuộc chiến, mà không biết rằng đến tháng năm nào ôngh mới lại có thể trở về, hoặc là mãi mãi không về nữa. Càng nghĩ càng xót xa cho thân phận người lính.
Đến lúc chuẩn bị lên đường trở về căn cứ, khi đã chia tay hỏi han hết người thân, bạn bè, ông Sáu quay lại nhìn con, nhưng nhớ đến sự xa cách, chối bỏ của con bé với mình, ông Sáu lại cố kìm nén cái khao khát được ôm hôn con bé trước khi đi xa, mà chỉ lặng nhìn con bé "với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu" cùng lời từ biệt "Thôi ba đi nghe con!". Có lẽ ông cũng không mong mỏi con bé sẽ đáp lại ông điều gì đó nữa. Những tưởng rằng con bé vẫn sẽ lạnh lùng, nhìn ông ra đi cũng như lúc nhìn ông về thì bất ngờ một tiếng "Ba...a...a...ba!" như xé nát không gian, xé vào tâm can mọi người, nghe thật xót xa. Con bé chạy đến nhào vào lòng ông Sáu, ôm chặt lấy cổ ông, vừa nói vừa khóc "Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!". Còn hạnh phúc nào hơn giây phút này nữa, tình phụ tử thiêng liêng bao trùm khắp trong căn nhà bé nhỏ, ông Sáu mừng vui quá đỗi, những giọt nước mắt xúc động chảy dài, ông lau nước mắt rồi hôn lên tóc con bé một cách đầy trân trọng và yêu thương. Hóa ra, bé Thu không nhận ba là vì trên mặt ba nó có vết sẹo dữ tợn quá, khác xa với tấm ảnh mà mẹ đưa cho nó, khi con bé sang nhà bà ngoại, biết được căn nguyên của vết sẹo là do bị thương trong khi chiến đấu, nó mới vỡ lẽ, quay trở về nhận ba.
Nhưng một lần nữa bi kịch lại xảy đến, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, ngay cái lúc cha nhận nhau cũng là lúc ông Sáu phải ra đi, mà chuyến đi này lại là chuyến đi mãi mãi, cũng là lần cuối bé Thu được nhìn thấy cha mình. Ông Sáu ra đi với lời hứa làm cho bé Thu một chiếc lược ngà, và một nỗi khổ tâm day dứt mãi trong lòng, ông ân hận nghĩ mãi sao ngày ấy mình lại đánh con bé. Cả nỗi nhớ và nỗi ân hận, khiến ông làm chiếc lược ngà càng tỉ mỉ và thận trọng hơn, dường như mỗi một chiếc răng lược, mỗi một vết cắt đều thấm đẫm tình yêu của ông dành cho con. Nhưng đáng buồn thay, ông vĩnh viễn không thể trở về như lời ông hứa "Ba đi rồi ba về với con", cũng không thể tận tay trao cho đứa con gái yêu dấu chiếc lược mà ông dày công chế tạo.
Có thể nói rằng cả cuộc đời của ông Sáu đã bị chiến tranh hủy hoại, mang đến cho ông tấn bi kịch gia đình với những tổn thương sâu sắc. Nó không chỉ để lại trên thân thể ông những dấu tích kinh hoàng, cướp đi sinh mạng của ông mà còn cướp đi của ông những giây phút êm ấm bên gia đình, chia cắt tình cha con, vợ chồng, để lại trong tim ông những nỗi đớn đau tột cùng. So với những gì đã mất, thứ ông Sáu nhận lại chỉ là vài giây phút được gần vợ, con ngắn ngủi, cùng với nỗi nhớ thương, ân hận da diết đến tận lúc hi sinh.
Không có hạnh phúc nào cho người lính, đó là câu nói dành cho cả những người đã nằm xuống và những người còn may mắn sống sót sau những cuộc chiến khốc liệt. Chiến tranh đã lấy đi của họ quá nhiều, những người ra đi không hối tiếc một lời, dành cả thanh xuân cho đất nước, dân tộc, cống hiến vì hai chữ hòa bình, tự do, còn bản thân nhận lại hết những tấn bi kịch, bất hạnh không nói thành lời. Nhân vật ông Sáu và tác phẩm Chiếc lược ngà, không chỉ phản ánh sự khốc liệt và đau thương của chiến tranh mà còn nói lên số phận của những người lính, nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng độc lập, tự do của dân tộc, những thứ đã được đánh đổi bằng máu thịt, nước mắt của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử. Tác phẩm cũng khắc họa sâu sắc tình cha con của các nhân vật, thể hiện sự thiêng liêng, gắn kết máu thịt, dù trong hoàn cảnh chia cắt đôi nơi, nhưng thứ tình cảm ấy vẫn đong đầy, vẹn nguyên, thậm chí sâu đậm hơn trong trái tim của ca hai cha con ông Sáu.
Bài mẫu số 3
“Ê-mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…”
(Tố Hữu)
Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà chẳng biết rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang diễn ra mà chính người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có thể đặt chiếc hôn cuối cùng lên má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng chưa một lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến, là cây đại thụ của văn học Nam Bộ với các tác phẩm truyện ngắn nổi bật như: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”,… Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Và nhân vật ông Sáu chính là sự thành công vang dội, để lại cho độc giả bao ấn tượng mãi không phai. Suốt tám năm ròng rã vì lý tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng nhận đấy là cha mình. Là một người cha, ông Sáu thông cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp. Người đàn ông mạnh mẽ, dũng cảm đến đâu cũng sẽ yếu lòng trước vợ con, lúc này đây tình thương lớn dần, nếu không có chiến tranh thì có lẽ ông đã được bên cạnh con mỗi ngày, nuôi dạy và chăm sóc nó lớn.
Cũng như bao người khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu ở hậu phương. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông sau tám năm xa cách. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy… Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của ông thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm siết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách… Ông đã “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Ông không ghìm nổi xúc động…. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó như một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu, ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông ông vô cùng đáng thương. Có lẽ ông Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm sao ông có thể không đau đớn, xót xa.
Mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Khi mẹ bảo nó gọi ba vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Nó nhất định không chịu gọi ông là “ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm biết mấy, yêu con ông không nỡ mắng mà chỉ “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là vui mà có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được, nên đành phải cười vậy thôi. Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.
Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con, vì vậy, bao tình cảm của ông đều dồn hết vào việc chế tạo chiếc lược ngà, mong một ngày có thể trao tận tay món quà này cho con. Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ. Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược. Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng. Nhưng trớ trêu thay, khi không thể đợi đến ngày về, ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – Ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Cốt truyện được xây dựng khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật ông Sáu hơn hết. Từng câu cảm thán tha thiết, từng dòng chảy trôi tâm sự, trải lòng như vết dao cứa vào vết thương cứ thế rỉ máu. Thứ tình cảm thiêng liêng, tình cha con mãi chẳng thể bù đắp. Chiến tranh qua đi để lại bao mất mát khôn tả, thứ cướp đi người chồng của vợ, người cha của con và người chiến sĩ của Tổ quốc.
Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây đại thụ sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến. Ông sở hữu cho chính mình kho tàng những tặng phẩm mang dấu ấn Nam Bộ. Qua nhân vật ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được. Sự băng hoại khốc liệt của thời gian cũng chẳng thể nào xóa nhòa “thước phim tua ngược” mang tên “chiếc lược ngà” ấy. Đó là nơi chúng ta luôn cảm nhận được những điều ấm áp từ trái tim đến với trái tim và cả thứ tình cảm gia đình thiêng liêng. Chẳng những thế, bao mất mát đau thương từ chiến tranh cũng là để chúng ta biết ơn, động lực biết phấn đấu vì tương lai nước nhà mà không quên rằng họ đã “đổ máu” đổi lấy sự bình yên này.
Bài mẫu số 4
Câu chuyện về tình cha con của ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà gây xúc động cho người đọc vô cùng. Tình cha con ấy được đặt thử thách trong hoàn cảnh chiến tranh nên càng có nhiều điều đáng nói. Sự khốc liệt của chiến tranh, của thời gian không thể làm tàn lụi đi tình cảm ấy. Hơn hết càng khiến cho tình cảm ấy thêm thiêng liêng khi những con người trong câu chuyện nhìn nhận được tình cảm, tình nghĩa, sự quan trọng của tình cảm gia đình.
Trong tác phẩm nhân vật chính là bé Thu, nhưng còn một nhân vật trung tâm, nhân vật mang tư tưởng rất lớn lao cho tác phẩm, đó là nhân vật ông Sáu. Chiến tranh thực sự là một điều đáng sợ. Cũng chỉ vì chiến tranh mà gia đình nhỏ ba người của ông Sáu thật khó khăn trong việc đoàn viên đoàn tụ. Ông Sáu làm lính, cả đời nguyện hiến dâng cho Tổ quốc, cống hiến hết mình cho nhân dân và dù biết gánh được trách nhiệm là phải bỏ bê trách nhiệm nhỏ, ông hiểu và luôn đau đáu trong lòng nỗi buồn vì không bù đắp nhiều tình cảm cho vợ con. Ông suy nghĩ rất nhiều, đặc biệt là về đứa con gái bé bỏng, lần gặp cuối cùng là từ khi con còn nhỏ xíu, thấm thoắt đã 8 năm. Nỗi nhớ thương con trong ông ngày càng da diết, ông mong ngóng từng ngày được trở về thăm con. Không được gặp con, không được gần gũi bên cạnh chăm sóc, bao bọc, bảo vệ con gái suốt bao nhiêu năm chính là nỗi day dứt lớn lao nhất trong trái tim của ông.Tại nơi chiến trường, không ngày nào ông không nhớ về gia đình, nhớ về vợ, nhớ về đứa con gái bé bỏng thân yêu. Ông cứ hình dung mãi không biết dáng hình của cô con gái của mình hiện giờ ra sao, cao lớn thế nào, có luôn nhớ tới ông như nỗi nhớ dào dào, mòn mỏi của ông hướng về nó. Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, bao nhiêu sự suy tư được thể hiện. Với ông Sáu, chẳng có gì sung sướng hơn nếu một ngày nào đó ông được trở về thăm nhà. Được gặp lại con, được nghe con gái mình gọi một tiếng “ba” chính là niềm mơ ước lớn lao nhất hiện giờ của ông Sáu.
Và rồi niềm mong mỏi đó cũng có ngày trở thành hiện thực, tuy nhiên, mọi chuyện không như ông mong muốn. Ông mòi mỏi, háo hức vô cùng để được gặp mặt con gái, được ôm con gái vào lòng, được hôn lên tóc nó….nhưng cuối cùng chỉ nhận được sự ghẻ lạnh của cô con gái bướng bỉnh. Cô bé chạy trốn khỏi ông, ông càng đến gần thì nó lại càng bỏ ra xa, khước từ mọi sự gần gũi, vỗ về, quan tâm, âu yếm của ông. Và điều khiến ông đau đớn hơn cả là nó nhất quyết không chịu gọi ông bằng “ba”, phản kháng lại tất cả những việc mà ông dành cho nó, làm cho nó.
Ông Sáu càng gần gũi con, con càng đẩy ông ra xa, ông xót xa vô ngần. Ước nguyện không trọn vẹn, đó là điều ông đau đớn một. Nhưng chuyện sắp phải ra đi trong khi đó không được ôm con gái một lần, không được cảm nhận trọn vẹn, trong khi đó, ông còn lo sợ lần gặp này cũng sẽ là lần gặp cuối cùng vì sự nguy hiểm của chiến tranh là khôn cùng. Ông bất lực nhìn con gái, đau khổ, tuyệt vọng, tưởng chừng người đàn ông mạnh mẽ và can trường đó sẽ phải rơi nước mắt.
Cũng không trách cứ được bé Thu con gái ông, bởi con bé lưu giữ cho mình một tình cảm về cha đặc biệt quá. Đối với bé Thu, nó chỉ có một người ba duy nhất, nó thương ba của nó vô cùng. Hiểu được và thấm thía được những nỗi vất vả của ba nó. Chính bởi vậy, tình cảm của nó chỉ dành cho người ba thực sự của nó mà thôi. Chỉ vậy và không ai khác. 8 năm không phải quãng thời gian quá dài nhưng cũng không hề ngắn. 8 năm là quãng thời gian cho một đứa trẻ lớn khôn và cho một người đàn ông càng ngày càng già đi. Ba không giống trong bức ảnh chụp cùng mẹ, người đàn ông trước mặt Thu bây giờ khác biệt quá lớn, con bé có nhiều mối lo lắng và sự nghi ngờ.
Bé Thu – con gái ông, không chịu nhận ông là ba, hơn hết lại với thái độ rất cương quyết và chính khiến. Ông Sáu rất buồn, nhưng ông Sáu cũng không trách con, hơn hết ông thương con hơn vì sự thiếu thốn tình cảm của người cha. Đoạn văn nói về cảnh cha con nhận nhau gây xúc động mạnh mẽ cho người đọc. Thấm thía vô cùng sức mạnh của tình phụ tử. Con gái ôm chặt ba mà hôn lên má ba, hôn lên cả vết thẹo dài trên má – nguyên nhân của việc khó nhận ra ba. Đau đớn, xót xa nhưng cũng ngập tràn sự hạnh phúc. Đối với ông Sáu, giây phút đó khiến ông mãn nguyện cả cuộc đời rồi. Để khi ra chiến trường, nỗi nhớ thương con của ông càng thêm da diết, ông tự mình làm ra cây lược kỷ niệm cho con gái thân yêu, bé bỏng của mình.
Chiến tranh rất khốc liệt và tàn nhẫn, nó phá hủy biết bao hạnh phúc của con người. Trong tác phẩm Chiếc lược ngà, chiến tranh khiến cho hạnh phúc gia đình của ông Sáu không trọn vẹn, vợ xa chồng,con xa cha để rồi dẫn đến có cuộc kỳ ngộ nhiều đau đớn, xót xa nhưng cũng cảm động và ấm áp vô cùng.
Bài mẫu số 5
"Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.
Tình cảm của anh Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăng trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu.
Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mả bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại.
Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất những kỷ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.
Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!.
Bài mẫu số 6
Văn học từ cổ chí kim luôn tồn tại một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Đã có biết bao khúc ca ấm áp vang lên như sự tri ân của những người con dành cho cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca đẹp về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, bao năm qua luôn là một tiếng ngân sâu lắng trong lòng độc giả Việt Nam.
Chiếc lược ngà là câu chuyện về tình cha con sâu nặng, tha thiết của ông Sáu và cô con gái tên Thu. Một câu chuyện đẹp nhưng buồn, có sức lay động sâu xa, gợi lên trong lòng độc giả bao thế hệ nỗi niềm xót xa, thương cảm, day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh ấy như khắc sâu vào tâm khảm mỗi người, khiến ta thấm thía hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ của một thời chiến tranh gian khổ và ta biết yêu kính hơn, trân trọng họ hơn. Bằng lời văn dung dị, nhẹ nhàng, nhiều âm vang với những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc và cảm động tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Phải chăng sức nặng của những ám ảnh đó chính là bởi tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng toát ra từ mỗi lời văn, va đập vào trái tim độc giả, lắng đọng và day dứt mãi không thôi ?
Ngay từ đầu câu chuyện, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu con tha thiết của ông Sáu. Người lính đã trải qua khói lửa chiến tranh, gió sương núi rừng, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí thép nhưng trái tim người cha trong ông thì vẫn ấm nóng. Vì vậy mà, mới chỉ nghĩ đến việc được gặp con thôi, ông đã thấy “nôn nao mãi“. Hành động vội vàng: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước chân dài, rồi dừng lại, kêu to: “Thu ! Con” đã khắc họa rõ nét nỗi lòng khao khát, mong mỏi của người cha. Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn bị dồn nén bao năm. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật…” là biểu hiện của sự xúc động tột độ. Tiếng xưng “ba” sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ oà, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong “giọng run run”: “Ba đây con”. Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, “mặt nó tái đi, rồi vụt chạy”. Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Không nản lòng, trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dành hết tình cảm cho bé Thu. Ông ân cần, nhẹ nhàng chăm chút con bé. Trước sự cự tuyệt, bướng bỉnh của cô con gái, người cha ấy vẫn hết sức bền bỉ, nhẫn nại. Đó là sự bao dung của một người làm cha, của nỗi niềm khao khát “mong được nghe một tiếng gọi ba của con gái”. Và rồi, khi tình cảm quá lớn lại gặp phải sự cự tuyệt kiên quyết của bé Thu, nó như bị thúc ép, khiến ông không giữ được bình tĩnh “vung tay đánh mạnh vào mông" con bé và hét lên: ‘‘Sao mày cứng đầu quá vậy ?”. Ông Sáu đánh con vì tức giận, đau đớn và bất lực. Thời gian ông có thể ở bên con không còn nhiều, vậy mà con bé vẫn không chịu thừa nhận ông. Hành động đánh con của ông là một sự kìm nén của nỗi lòng mong mỏi quá lớn. Nhưng cũng chính điều đó đã giày vò tâm trí ông, trở thành mối khổ tâm suốt những năm tháng sau này khi phải xa con.
Vào thời khắc cuối cùng được ở nhà, được nhìn thấy con gái, trái tim của người cha đã được xoa dịu khi bé Thu nhận ra ba. Lúc chia tay, ông Sáu cố nén lòng, kìm giữ cảm xúc của mình. Ông “cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng cũng lại sợ nó giãy lên, lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó“. Chỉ cần nhìn thấy sự hiện diện của con thôi, ông cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Và bao nhiêu tình yêu ông dồn cả vào ánh mắt nhìn con – “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu“. Ánh mắt ấy vừa muốn bộc lộ hết tình yêu tha thiết với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi buồn của sự chia xa và cả nỗi đau của sự bị khước từ. Để rồi, tất cả như vỡ oà theo tiếng gọi “ba” bất ngờ của bé Thu: “Ba… a… a… ba !”. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chừng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu “không ghìm được xúc động”, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật ông Sáu. Toàn bộ câu chuyện về người chiến sĩ ấy đều gắn với sự bộc lộ tình yêu con. Từ những hành động đến những chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm trạng. Vì thế mà trong tâm trí người đọc, hình ảnh ông Sáu hiện lên với tình yêu con thiết tha, sâu nặng. Những ngày ở chiến trường, tình yêu con được ông Sáu dồn vào việc làm cây lược tặng con. Dõi theo quá trình làm chiếc lược của ông Sáu, từ vẻ mặt “hớn hở” khi nhặt được khúc ngà đến khi tỉ mỉ ngồi giữa cây lược “như người thợ bạc”, ta có thể cảm nhận được tình yêu sâu nặng của ông. Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba‘’ thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha đối với cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa tinh thần mỗi khi ông nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con, ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu con của ông.
Tình yêu của ông Sáu dành cho con thật sâu sắc. Bao cung bậc cảm xúc của ông được người đọc thấu cảm, sẻ chia. Trong chiến tranh, có những việc tưởng chừng rất bình dị như nghe một tiếng con gọi “ba”, tự tay tặng cho con một món quà nhỏ, được ôm con trong vòng tay,… cũng trở thành mơ ước của rất nhiều người và cũng rất nhiều người trong số họ giống như ông Sáu đã không thực hiện được ước nguyện đó. Nhưng cũng chính trong sự khốc liệt của chiến tranh, tình cảm tha thiết, trái tim ấm nóng của người cha lại được bộc lộ rõ nhất. Nó lắng đọng ngân vang mãi trong lòng ta.
Sức ám ảnh của truyện ngắn Chiếc lược ngà được tạo nên bởi nội dung câu chuyện. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế trong việc thể hiện mọi cung bậc của cảm xúc, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn từ,… Tất cả những điều đó đã góp phần làm nên sức sống của câu chuyện.
Tác phẩm khép lại nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng, cao cả sẽ mãi là ngọn lửa lấp lánh sáng, sưởi ấm trái tim độc giả.
Bài mẫu số 7
Có thể nói, ông Sáu là một người cha yêu thương con vô bờ bến. Ông anh dũng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Ngày tạm biệt quê hương bước chân vào chiến trường đứa con gái bé bỏng của ông mới lên một tuổi. Bảy năm ròng rã ngoài chiến trường đã dấy lên trong ông khao khát được gặp lại vợ con, được nghe con gọi một tiếng “ba”. “Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”.
Thế nhưng trước tình cảm đó bé Thu – con gái bé bỏng của ông lại tỏ ra xa lánh, ngờ vực ông, nó nhất quyết không chịu gọi một tiếng “ba”. Dù vậy, trong suốt ba ngày về phép ông Sáu luôn tìm cách vỗ về, gần gũi con. Ông quan tâm, yêu chiều nó hết mực. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó một miếng trứng cá vàng ươm nhưng nó lại bất ngờ hất văng miếng trứng khỏi bát. Vì quá tức giận ông đã ra tay đánh nó nhưng chính hành động đó lại khiến ông day dứt cho đến mãi về sau.
Hết ba ngày phép, trước khi quay trở về chiến trường ông muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó giãy lên bỏ chạy nên chỉ biết đứng đó nhìn nó với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Khi đứa con bất ngờ chạy đến ôm ông thật chặt và gọi một tiếng “ba” ông đã không kìm được xúc động. Đó là tiếng “ba” mà ông đã chờ đợi ngần ấy thời gian. Ông Sáu một tay ôm chặt con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Còn gì cảm động hơn giờ phút cha con nhận lại nhau lại chính là giờ phút phải chia tay. Tiếng “ba” ấy của bé Thu cất lên không chỉ gây xúc động cho người cha mà nó còn như một tiếng thét xé tan im lặng, xé lòng tất thảy mọi người.
Trở về chiến trường, nhớ lại lời hứa với bé Thu, ông Sáu đã ngày ngày làm tặng con gái một chiếc lược ngà xinh xắn. Có cây lược ông càng mong gặp lại con. Chiếc lược ngà đã trở thành vật quý giá thiêng liêng đối với ông Sáu. Nó xoa dịu nỗi đau chiến tranh, nó chứa đựng biết bao tình cảm cha con sâu sắc. Nhưng rồi ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược cho bé Thu đã hi sinh nơi chiến trường ác liệt. Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con bỗng bừng lên, anh đưa tay vào túi, trao lại cho người đồng chí của mình chiếc lược ngà rồi vĩnh viễn ra đi.
Một người cha mong ngóng con suốt bảy năm chiến trường ròng rã, một người cha chỉ mong một lần được con mình gọi một tiếng “ba”, một người cha dành trọn nhớ thương để dành tặng con gái một món quà vậy mà đã mãi mãi nằm xuống nơi chiến trường lạnh giá. Chiến tranh quả thật đã quá tàn khốc với tất cả mọi người. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng biết bao người vô tội, khiến cho bao gia đình sống trong cảnh mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Cái giá mà chiến tranh để lại sẽ hằn sâu trong mỗi người cho đến mãi về sau.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, lối miêu tả nội tâm nhân vật sắc bén cùng với những tình cảm hết sức chân thành Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên hình tượng một người cha thật đẹp. Dường như ông Sáu cũng chính là nhân vật đại diện cho biết bao thế hệ cha anh thời đó. Họ vì tình yêu quê hương đất nước mà sẵn sàng lên đường ra đi bảo vệ Tổ quốc, để lại sau lưng là gia đình thân yêu của mình để rồi anh dũng hi sinh.
Câu chuyện còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao người dân vô tội. Nó cũng là lời khẳng định rằng dù bom đạn chiến tranh có tàn khốc, quyết liệt đến đâu thì cũng không thể dập tắt được tình cảm cha con thiêng liêng trong trái tim mỗi người chiến sĩ. Vừa mang giá trị hiện thực, vừa toát lên chất nhân đạo ở từng câu chữ đã khiến “Chiếc lược ngà” trở thành tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng đồng thời cũng làm nên tên tuổi của ông.
Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thêm thấm thía.
Bài mẫu số 8
Nguyễn Quang Sáng là cây bút chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam Bộ trong 30 năm chiến tranh. Truyện thể hiện cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đọng lại trong tâm hồn người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó quên về nhân vật ông Sáu là người cha, người chiến sĩ chịu nhiều thiệt thòi nhưng có tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng.
Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu. Khi ông Sáu đi kháng chiến, bé Thu chưa đầy một tuổi. Tám năm trời cha con em chỉ biết nhau thông qua 2 tấm ảnh. Lần nghỉ phép ba ngày của ông Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như trong tấm ảnh. Đến lúc Thu nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tiếp tục đi chiến đấu. Và lần gặp mặt ấy là lần đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con Thu. Tình huống truyện thật éo le. Trong chiến tranh, những câu chuyện như thế đâu có hiếm. Điều đáng nói là chính trong hoàn cảnh đó, tính cách của đứa trẻ tám tuổi và tình cha con sâu nặng đã được nhà văn thể hiện sâu sắc.
Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà. Trên đường về thăm nhà trong lòng ông bồi hồi xúc động: cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng ông. Người cha được về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang. Khi xuống chưa kịp cập bến, ông vội vàng nhảy thót lên bờ, xô cái xuồng tạt ra xa. Ông khát khao gặp con, khát khao ôm ấp hình hài máu mủ của mình sau bao năm xa cách. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Trông thấy đứa trẻ chơi trước sân nhà, ông đã cất tiếng gọi con thân thương trìu mến bằng tất cả tấm lòng mình: Thu con! Ba đây con! Ba đây con”. Tiếng gọi thổn thức của người cha cất lên từ sâu thẳm trái tim của người lính sau bao năm xa cách làm xao động tâm hồn người đọc. Nhưng trái với niềm mong đợi của ông, những tưởng bé Thu sẽ vào tới, ôm lấy thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không , ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy: “Bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy” khiến ông Sáu sững sờ, thất vọng, rơi vào tâm trạng hụt hẫng.
Tuy nhiên, tình yêu của người cha đã khiến ông sau cái giây phút choáng váng ban đầu, cái giây phút “mặt sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy” ông vẫn kiên trì gần gũi con. Những ngày ở bên con, trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông luôn ở bên con không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách an ủi vỗ về nó. Ông tìm mọi cách để mong được nghe một tiếng ba” nhưng đều thất bại. Khi má bảo Thu kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng. Thu nói trống không: “Con kêu rồi người ta không nghe”. Hai từ “người ta” mà Thu kêu làm ông đau lòng, khổ tâm. Nó cũng chẳng nhờ chắt nước cơm giùm. Ông Sáu buồn quá đến nỗi không khóc được nên cuối cùng ông phải cười mà không nỡ giận con. Quả thật, ông là người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng giàu lòng nhân hậu vị tha. Trong bữa cơm, bằng lòng thương của người cha ông Sáu gắp cho con cái trứng cá to và vàng ươm, ông tưởng con sẽ đón nhận vậy mà nó bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, ông giận quá đánh con đã làm mất tia hy vọng cuối cùng về tình phụ tử. Lúc đó ông đau đớn vô cùng. Lòng ông như sa mạc khô cháy mong chờ giọt nước mát lạnh của tình yêu thương nơi đứa con sống với ông vẫn chỉ là khao khát bởi bé Thu bỏ sang ngoại không một lời xin lỗi. Qua đó, chúng ta thấm thía sự mất mát lớn lao của người lính trong kháng chiến
Trong những ngày ở khu căn cứ: Anh ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ lời con dặn “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất. Cho nên, nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược, trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Bắt đầu từ lúc này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một nhân chứng âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử. Ông đã ngồi bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua sắm được cây lược. Làm lược từ ngà voi là cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và, anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt vào đấy tất cả tình cha con của mình. Khi kiếm được một khúc ngà anh vui mừng như trẻ nhỏ “ mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Những ngày sau đó bao nhiêu tình cảm yêu quí , nhớ thương con anh dồn cả vào việc làm cây lược . Anh cặm cụi “cưa từng răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” để rồi khi chiếc lược hoàn thành, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” ... Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra màu lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên , cây lược ngà đã kết tinh trong đó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm sao! Đau đớn thay chiến tranh khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái anh được nữa. Anh bị hy sinh trong một trận càn.Trước lúc hy sinh, “dường như chi có tình cha con là không thể chết”, không còn đủ sức trăng trôi điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc đưa tay vào túi, móc cái lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cử nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử! Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Sau khi học xong truyện Chiếc lược ngà, em thấy tình cảm cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là tình cảm cao quý. Lớp trẻ chúng ta hôm nay được sống trong hòa bình không thể không nhớ đến sự hi sinh của những người như ông Sáu. Mọi người phải sống và làm việc sao cho xứng đáng với các tình cảm cao quý đó. Đây cũng là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn” cần kế thừa và gìn giữ, phát huy.
Bài mẫu số 9
Tình phụ tử luôn là đề tài có rất nhiều khía cạnh để khai thác, nhất là trong thơ văn. Tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng hình tượng nhân vật ông Sáu, một người cha với tấm lòng yêu thương con đầy ấm áp, sâu sắc. Ông Sáu đi tập kết từ khi bé Thu còn rất nhỏ. Đến khi được nghỉ phép trở về, con bé đã hơn sáu tuổi. Gặp con, ông vui mừng khôn xiết, vội chạy lại để ôm con nhưng bé Thu lại sợ hãi và chạy vụt đi. Kì vọng vào cuộc gặp gỡ bao nhiêu, ông lại càng thất vọng bấy nhiêu. Con bé tỏ ra chán ghét anh và nhất quyết không chịu gọi "ba". Trong những ngày ở nhà, ông Sáu đã cố gắng để được gần gũi với con hơn nhưng bé Thu vẫn luôn tránh né. Đỉnh điểm, ông đã lỡ tay đánh con vì con bé hất miếng trứng cá mà ông gắp cho. Ngay ngày hôm sau, ông phải quay lại chiến trường. Tưởng như câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì bé Thu bỗng thét gọi ba. Đây là tiếng gọi ông đã mong chờ từ lâu, nó đến vào lúc không ngờ nhất khiến ông cực kì xúc động, không giấu được những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má. Khi ở đơn vị, ông không nguôi nỗi nhớ con và ân hận vì mình đã đánh con. Anh vô tình kiếm được khúc ngà voi và quyết định sẽ tự tay làm cho con một chiếc lược ngà. Anh đã đem hết nỗi thương nhớ con bé Thu của mình đặt trong món quà đó. Mỗi lần nhớ con, anh lại lôi cây lược ra ngắm nghía, mong chờ đến ngày đoàn tụ. Từ đó, ta thấy được tình cảm cha con thiêng liêng, mãnh liệt được thể hiện ở nhân vật này. Dù có phải chịu nhiều nỗi buồn vì chiến tranh chia cắt, vì con khó nhận cha. Nhưng sau cùng, anh vẫn dành cho con gái mình một tình cảm ấm áp, chân thành, đầy cao cả.
Xem thêm các bài văn mẫu 9 hay khác:
TOP 50 Mở bài Chiếc lược ngà (2024) SIÊU HAY
TOP 50 Kết bài Chiếc lược ngà (2024) SIÊU HAY
TOP 20 Bài văn cảm nhận về đoạn trích truyện Chiếc lược ngà (2024) SIÊU HAY
Văn bản Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) - Nội dung, Tác giả tác phẩm - Ngữ văn 9
TOP 10 Tóm tắt Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) - Ngữ văn 9
TOP 10 Bài văn đóng vai bé Thu kể lại câu chuyện Chiếc lược ngà (2024) SIÊU HAY