Dàn ý phân tích bài thơ Lá đỏ
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội, là một nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học, nhạc sĩ.
- Giới thiệu về bài thơ Lá đỏ.
-
- Hoàn cảnh ra đời: Mùa thu năm 1974, Nguyễn Đình Thi theo đường mòn Hồ Chí Minh vào chiến trường Nam Bộ, ông đã chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt giữa bức tranh thiên nhiên Trường Sơn mùa lá rụng.
- Nội dung bài thơ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.”
II. Thân bài:
- 2 câu thơ đầu tiên: không gian nơi hai người gặp nhau.
- 4 câu thơ tiếp theo: hình ảnh con đường Trường Sơn.
- “Em đứng bên đường như quê hương/Vai áo bạc quàng súng trường: Giữa con đường hành quân gian khổ, hình ảnh cô gái thanh niên xung phong đứng bên đường đã xóa tan nhưng sự vất vả vừa trải qua, mang lại cảm xúc thân thương, bình dị như quê hương.
- Từ láy “vội vã” trong câu thơ “Đoàn quân vẫn đi vội vã” có nghĩa thể hiện sự vội vàng, đi liên tục mà không ngừng nghỉ của đoàn quân.
- “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”: sự khắc nghiệt và gian lao của chiến tranh.
- 2 câu thơ cuối: lời hứa hẹn, dự cảm về một Việt Nam chiến thắng, giải phóng Sài Gòn.
- Nghệ thuật sử dụng bài thơ: thể thơ tự do, bút pháp so sánh, ngôn ngữ thơ chân thực, gần gũi với người đọc.
III. Kết bài:
- Cảm nhận chung về bài thơ: Bài thơ cho người đọc hiểu được sự khốc liệt, hy sinh của dân tộc ta trong cuộc chiến bảo vệ Tổ Quốc.
Một số bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Lá đỏ
Bài mẫu số 1
Nguyễn Đình thi là nhà thơ miệt mài, cần cù trong suốt hành trình nghệ thuật của mình, hơn 60 năm cầm bút ông đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều loại hình khác nhau, song thơ là lĩnh vực ông dành nhiều tâm huyết nhất. Mỗi bài thơ của ông đều mang bản sắc riêng rõ nét, “Lá đỏ” là một điển hình, tiêu biểu cho cả nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi.
Bài thơ được sáng tác năm 1974, giai đoạn đất nước ta chuẩn bị tổng tiến công, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ có nội dung, cảm hứng chủ đạo là niềm tin vào sự chiến thắng của dân tộc. Tác phẩm như một lời dự cảm về ngày mai tươi sáng của đất nước, khi chúng ta đã dành được độc lâp, tự do, hòa bình.
Chỉ với tám dòng thơ ngắn gọn và súc tích, Nguyễn Đình Thi đã tái hiện cả một cuộc hành quân trường kì, vĩ đại của đất nước ta trong cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ quốc. Đó là cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, bộ đội tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài thơ được viết khi nhà thơ được trực tiếp đến và trải nghiệm cuộc sống ở Trường Sơn – cũng là lí do cho những dòng viết chân thực và sống động trong thơ ông.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ”
Có thể cảm nhận được vị trí nơi nhà thơ đứng là đỉnh Trường Sơn “cao lộng gió”, một nơi có thể phóng tầm mắt nhìn ra bao la, rộng lớn và bao quát. “Trên cao” còn có hàm ý về vị thế trong tư tưởng, tình cảm – tức cao quý, cao cả. Hai chữ “lộng gió” tựa như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới, đón chào những luồng gió Cách mạng.
Từ đỉnh núi, ông thấy được cảnh thiên nhiên đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ láy “ào ào” được sử dụng độc đáo, gợi ra cảnh một cơn cuồng phong làm nên trận “mưa” lá đỏ tuôn trào, mãnh liệt như sức sống Trường Sơn. Màu đỏ của lá tựa như màu đó của lá cờ Tổ quốc, của dòng máu chảy trong mỗi trái tim người con đất Việt.
Hai câu thơ tiếp theo xuất hiện bóng dáng con người, hình ảnh thật đẹp trong cuộc chiến tranh nhân dân – “em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong:
“Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường.”
Sự có mặt của những cô gái trên đỉnh Trường Sơn đã góp phần tạo nên một thời kì huy hoàng của Tổ quốc, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trong đó có cả những cô gái trẻ trung, xinh đẹp mà lẽ ra được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Hình ảnh những cô gái bên đường Trường Sơn gợi nhắc về hình ảnh những cô thanh niên xung phong trên cao điểm trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê).
Có biết bao chàng trai, cô gái ngày đêm không ngừng nghỉ, thậm chí hi sinh cả tính mạng vì sự nghiệp của Tổ quốc, tất cả đã cùng làm nên những trang lịch sử chói lọi, làm nên “Đất Nước muôn đời”. Hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” thật giản dị, thân thương. Đó là chứng tích sau biết bao tháng ngày dầm mưa dãi nắng; cũng là hình ảnh nổi bật giữa núi rừng Trường Sơn “ào ào lá đỏ”.
Trong những năm tháng máu lửa của thời kì kháng chiến chống Mỹ, Trường Sơn đã trở thành trận địa thiêng liêng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”
Con đường hành quân đầy gian khổ, khốc liệt. Ta nhớ về hình ảnh con đường hành quân của những người lính Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Con đường càng đi như các thách thức ý chí của những người chiến sĩ. Song, đoàn quân “vẫn đi vội vã” với những bước chân hối hả, trùng điệp, rung chuyển đất trời: “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Câu thơ gợi khung cảnh hào hùng, không khí sử thi hào tráng ở những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Những đoàn quân cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng nghỉ, nhà thơ – chiến sĩ chỉ kịp ghi lại dáng hình quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
“Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.”
Sài Gòn – cái đích của cuộc hành quân, cuộc tiến công đã thật gần, con đường chạm tới chiến thắng, độc lập, tự do không còn xa. Lời chào, lời hẹn ước ấy chưa đựng biết bao nhiệt huyết của tuổi trẻ, khát khao, lý tưởng cao đẹp.
Không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc về nội dung, bài thơ cũng mang những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc. Yếu tố chính làm nên thành công của bài là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh sống động: lá đỏ, cô em gái tiền phương, đoàn quân – có sức gợi tả, khái quát cao cho vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam.
Về nhịp điệu, cơ bản xuyên suốt bài thơ là nhịp điệu của bước chân hành quân dồn dập, chắc khỏe. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi và chân thực, hình ảnh cuộc sống nơi chiến trường hiện lên tự nhiên, sống động.
Những cuộc kháng chiến đã qua đi, thời gian cũng dần phủ bụi nhưng kí ức về những năm tháng ấy có lẽ không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhiều năm sau, độc giả vẫn sẽ nhớ về những năm tháng ấy, nhớ về tuyến đường Trường Sơn “ào ào lá đỏ”, nhớ hình ảnh những cô gái tiền phương, những chàng trai chiến sĩ với những bước đi rung chuyển đất trời. Có lẽ vì vậy mà Balzac đã từng nói những người nghệ sĩ làm văn, viết thơ là “thư kí trung thành của thời đại”.
Bài mẫu số 2
Nguyễn Đình Thi (1924-2003) quê ở Hà Nội, ông là một nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học, nhạc sĩ. Thơ ông tự do, phóng khoáng, đồng thời cũng hàm súc, giàu chất suy tư, dạt dào cảm hứng yêu nước. Thể loại mà ông tâm huyết nhất vẫn là thơ, bởi đối với ông thơ như là một đứa con tinh thần mà cả cuộc đời của ông hướng tới và theo đuổi.
Thơ của ông thường mang cảm hứng về đất nước, con người trong thời kì kháng chiến. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương, con người chiến đấu để giành lại độc lập trong thời kì chiến tranh gian khổ. Một số tác phẩm tiêu biểu: Diệt phát xít (1945), Người Hà Nội (1947), Đất nước (1955)……
Bài thơ Lá đỏ được sáng tác tháng 12 năm 1974 – thời điểm cuộc kháng chiến thống nhất đất nước bước vào giai đoạn cuối, toàn quân và dân ta đang dồn sức cho tiền tuyến. Ông đã chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt “giữa nghìn tiếng nổ rung đêm lửa”. Sự hy sinh mất mát, đớn đau do chiến tranh gây ra và con người lại chính là những cá thể bị tổn hại nhiều nhất…
Nhưng cũng chính từ những tổn thất, đau thương, mất mát ấy lại hiện lên một vẻ đẹp diệu kỳ, lãng mạn của bức tranh thiên nhiên Trường Sơn bao la, với sắc đỏ phủ trời xanh của màu lá đỏ. Xúc động trước cảnh thiên nhiên Trường Sơn lá đỏ ào ào tung bay trong gió và trong khoảnh khắc đó bài thơ được ra đời, và trở thành khúc ca ra trận dọc theo chiều dài đất nước. Bài thơ còn được nhạc sỹ Hoàng Hiệp phổ nhạc và thành bài hát thể hiện khung cảnh oai hùng của đoàn quân ra trận.
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn”
(Trường Sơn, 12/1974)
Mở đầu bài thơ là hình ảnh gặp em trên cao, trên cao ở đây đầu tiên là nói về vị trí địa lý có thể là lúc đó tác giả đã gặp được em từ trên núi cao, đèo cao. Trên cao ở đây không chỉ nói về vị trí địa lý mà còn nói đến vị trí về tình cảm trong lòng của tác giả, tình cảm thiêng liêng này được đặt trên cao hơn mọi tình cảm khác. Đó là một nơi đẹp đẽ, thoáng đãng, đứng từ trên cao nguyên lộng gió ta cảm nhận được một khoảng không vô tận, bao la. Và thể hiện trước không gian đó là hình ảnh rừng lá đỏ ào ào, bay trong gió.
Giữa khung cảnh bầu trời xanh mát mẻ, nổi bật lên là hình ảnh là đỏ, màu lá đỏ như tô điểm thêm cho bầu trời Trường Sơn giữa lúc khói lửa mịt mù, do bom đạn thả xuống đất Trường Sơn, phải chăng chính hình lá đỏ đó đã chạm đến trái tim của tác giả. Bao nhiêu chiếc là đỏ đó cũng là bấy nhiêu những tâm tư, tình cảm của tác giả gửi vào trong đó.
Mùa lá đỏ nên thơ ấy đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm hùng tráng và màu đỏ ấy cũng đã vẽ lên sức sống cho con đường Trường Sơn mùa ra trận. Giữa lúc đất nước đang diễn ra cuộc chiến đấu căng co và gay gắt, màu lá đỏ như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trên chiến trường có thêm sức mạnh để chiến đấu vì quê hương, đất nước thân yêu của mình.
Bốn câu thơ tiếp theo là hình ảnh con đường Trường Sơn mùa ra trận. Mở đầu là hình ảnh cô thanh niên xung phong đứng bên đường. Nhắc đến con đường Trường Sơn không thể thiểu hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, vì lòng yêu nước mà sẵn sàng lên đường.
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường
Hình ảnh cô gái trẻ trung, xinh đẹp, dồi dào sức trẻ. Đáng lẽ ra những cô gái này phải được hưởng cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng, vì đất nước còn đang có giặc xâm chiếm nên những cô gái ấy sẵn sàng lên đường, đôi vai gầy vẫn sẵn sàng quàng súng xông ra chiến trường. Nhắc đến các cô gái thanh niên xung phong cũng rất nhiều nhà thơ lấy cảm hứng để viết. Trong bài thơ “Cái điểm sáng ấy” của tác giả Trần Nhật Thu cũng đã viết về những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
“Mấy năm rồi chạy trên tuyến Trường Sơn
Có đêm nào như đêm nay nhớ mãi
Những cọc tiêu là những cô em gái
Thanh thản đứng bên đường trọng điểm – xe lên.”
Hình ảnh con đường Trường Sơn được tác giả nhắc đến trong hai câu thơ.
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.
Đó là con đường đầy gian khổ và khắc nghiệt. Nhưng đoàn quân ta vẫn bước chân trập trùng, hối hả. Nó như rung chuyển đạp lên mọi khó khăn, thử thách. “Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa” bầu trời, khung cảnh Trường Sơn mịt mù, không phải do sương hay do cát bụi mà đây là do bom đạn, súng pháo bay nghi ngút. Khung cảnh thật khốc liệt làm sao. Qua câu thơ này ta có tể cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng cũng vô cùng khốc liệt và máu lửa. Đó là một không gian đẹp và cũng chính là một biểu tượng của chiến tranh đã được bài thơ khắc họa.
Hai câu thơ cuối của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước ta thống nhất.
Chào em em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn….
Hình ảnh em ở đây vừa hiện diện của hậu phương đang dồn mọi sức lực cho tiền tuyến vừa là đóng vai trò người lính ở tiền phương. Một lời chào nghe thì rất đơn giản nhưng ẩn sâu bên trong lời chào đấy là lời hứa hẹn về ngày trở lại khi đất nước đã giành được độc lập. Chiến dịch cuối cùng của cuộc trường chinh ấy sẽ mang tên Bác, gặp nhau giữa Sài Gòn là gặp nhau trong ngày toàn thắng. Không còn khói bụi rực trời nữa mà là khung cảnh vui mừng khôn xiết khi đất nước ta giành được độc lập.
Bằng thể thơ tự do, giọng thơ chân thực. Hình ảnh của bài thơ cũng rất gần gũi, khái quát được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam ta. Đặc biệt hình ảnh lá đỏ tạo cảm giác mạnh, mang ý nghĩa biểu trưng cho những dự cảm, dự báo về thắng lợi tất yếu của dân tộc. Bài thơ Lá đỏ là một bài thơ hay và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Bài mẫu số 3
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
(Nguyễn Ðình Thi – Trường Sơn, 12/1974)
Ðã hơn một lần nhà thơ Nguyễn Ðình Thi cho những cô gái Việt Nam nhỏ bé khoác súng trường. Lần trước, cách thời điểm của bài thơ này ngót chục năm, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ mới lan ra miền Bắc, trong bài Chia tay trong đêm Hà Nội, ông đã cho nhân vật trữ tình của mình trước lúc lên đường sóng bước bên người yêu:
Em đi bên anh tóc xoà bay rối
Nhỏ nhắn vai em khoác súng trường
Và cái hình ảnh kết thúc như thật như giả, nhưng có sức gợi: “Anh ôm em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.”
Lần này, người con gái bé nhỏ của hậu phương ngày nào đã không cam chịu ở lại phía sau, cô đã ra mặt trận. Ðã đành rằng trong cuộc chiến tranh vừa qua, ranh giới giữa tiền tuyến và hậu phương rất mơ hồ, và trên khắp đất nước ta ngày ấy, ở đâu cũng có thể trở thành tiền tuyến, nhưng… đây là một tiền tuyến thường trực, tiền tuyến của tiền tuyến: con đường Trường Sơn ác liệt và hào hùng, nơi sản sinh ra bao nhiêu huyền thoại mới mà hình ảnh những người con gái kiên cường như nhân vật của bài thơ này là một trong số đó. Lần này chẳng còn ai tiễn đưa ai.
Tác giả – hay nhân vật trữ tình cũng thế – đi trong dòng người đang hành quân vội vã, bất chợt:
Gặp em trên cao lộng gió…
Ðúng chỉ là một thoáng khắc, một cái ngước nhìn, một pô ảnh chụp vội. Nhưng đó là một thoáng khắc đầy tính biểu tượng, đầy chất thơ. Trước hết, bởi vì nó lạ. Nói như thi sĩ trẻ của thời đó Lưu Quang Vũ: Thơ là sự ngạc nhiên trước cuộc sống, hoặc xa hơn nữa, đời Thanh bên Trung Quốc, Thiều Ðại Nghiệp có câu: Giang sơn kiến quán tân thi thiểu (Tạm dịch: Sông núi xem nhàm thơ mới ít). Cái gì đã nhàm chán, mòn cũ thì không còn thơ nữa. Ðó là quy luật muôn đời của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Ở đây thì ngược lại, ấn tượng Trường Sơn đập vào tác giả hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm khác thường: trên cao, lộng gió, rừng lạ, ào ào lá đỏ… trong đó nổi bật lên cái màu lá đỏ, dữ dội và hào hùng, không phải màu lá xanh của bình yên và quen thuộc.
Trong một chuyến vào Nam trước đó không lâu, Tố Hữu cũng đã không bỏ qua chi tiết này của Trường Sơn: Bụi bay, bụi đỏ lá rừng (Nước non ngàn dặm). Như vậy, với Tố Hữu, màu đỏ của lá là vì bụi. Ai đã đi qua Trường Sơn những năm tháng ấy hẳn không thể quên được cảnh bụi, không phải thứ bụi lay phay của đồng bằng, bụi Trường Sơn mịt mù trời đất, bụi dày hàng gang, hàng mấy gang, ô tô có thể patinê vì bụi… và bụi, ấy là đặc thù của mùa khô, mùa của chiến trận, của những ngày tất bật của con đường… Nhưng cũng có thể màu đỏ lá rừng cũng còn vì những lẽ khác: vì nắng cháy, vì ánh chiều tà, vì đơn giản đó là màu của lá, Trường Sơn bạt ngàn rừng núi thiếu gì cây lạ, cảnh lạ… Chỉ biết đó là một ấn tượng mạnh.
Và nhà nghệ sĩ nhạy cảm không thể bỏ qua, ông đã kịp giữ lại nó cho mình và cũng là cho người đọc, người nghe. Ðể cực tả ấn tượng lạ đó, nhà thơ đã dùng đến những từ sắc, mạnh, với câu thơ xiết chặt đến cùng: Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa… Vẫn là sự chọn lựa riết róng, sự dồn nén (chứ không phải là nhồi nhét) của từ ngữ vốn là đặc thù của ngòi bút Nguyễn Ðình Thi từ buổi đầu làm thơ.
Có thể nói, để chở những thông điệp về nội dung mạnh mẽ, nhưng rất giản dị, dễ hiểu như lý tưởng chiến đấu của chúng ta ngày ấy, tác giả đã dùng đến những thủ pháp nghệ thuật không đơn giản một chút nào: những hình ảnh, âm thanh, màu sắc được chọn lọc tinh vi và đặt đúng chỗ, đủ sức tạo ấn tượng và lôi cuốn cảm xúc của người đọc.
Và, giữa cảnh hùng tráng mà lạ lẫm ấy của chiến trường hiện lên hình ảnh người con gái bé bỏng, thân gầy, với vai áo bạc như cuộc đời lam lũ của mẹ cha, với trên vai khẩu súng trường cũng đã trở nên quen thuộc, đã được đời thường hoá và nữ tính hoá từ lâu. Trong bối cảnh ấy, gọi tất cả hình ảnh mến thương mà lẫm liệt này là quê hương thì thiết tưởng không còn gì chính xác và gợi cảm hơn.
Ở đây ta thấy sức mạnh của nữ tính thật ghê gớm. Ngỡ như cả khi buộc phải cầm sắt thép trên tay, có mặt giữa một nơi đầy máu lửa, thì người phụ nữ vẫn không đánh mất đi những thuộc tính thiên tạo, những phẩm chất làm nên một hậu phương ấm áp và chở che… Chính họ đã tạo dựng lên những hậu phương ngay giữa lòng tiền tuyến.
Một nhà văn Nga đã viết: Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ, nhưng ở đất nước ta, một khi phụ nữ tham gia vào chiến tranh thì họ đã làm thay đổi gương mặt của nó. Và thế, tác giả thốt lên một lời chào mà cũng là một lời hẹn hò đầy tin cậy, hướng tới cái đích lớn của toàn dân tộc, tất nhiên – gặp nhau giữa Sài Gòn – nhưng trong đó vẫn không giấu nổi một sắc thái gì đó riêng tư tha thiết, với cách gọi tên em gái tiền phương hàm chứa biết bao âu yếm.
Nguyễn Ðình Thi nhiều tài nhưng viết ít, nhất là với thơ. Ông gợi ta nhớ đến một nhà thơ khác: Chính Hữu. Cả hai ông, về số lượng và chất lượng thơ có những nét khá gần nhau. Tuy nhiên, phần khác nhau cũng không nhỏ.
Riêng với Nguyễn Ðình Thi, ông đã tỏ ra trung thành với tuyên ngôn thơ của mình được tung ra từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ông là người có ý thức rất sớm rằng muốn phục vụ tốt cho cánh mạng, cho cuộc sống thì thơ trước hết phải là thơ, nghĩa là thơ chỉ có ích chừng nào nó hay, nó lôi cuốn người đọc không chỉ bằng nội dung mà bằng cả sức mạnh của nghệ thuật, với những tìm tòi, những đổi mới và sáng tạo không ngừng…
Ðể đạt đến cái đích chuyển tải được những ý tưởng và cao hơn là những ấn tượng, những cảm xúc cho người đọc, nhà thơ táo bạo này đã sẵn sàng từ bỏ các luật lệ của thơ truyền thống để chỉ giữ lại những gì cần thiết nhất: Sức hàm chứa của từ ngữ, sức gợi mở của hình tượng, sức lay động của nhạc tính…
Có lẽ vì thế mà thơ ông gần với âm nhạc, hay ngược lại, chính vì ông còn là một nhạc sĩ nên thơ ông thừa hưởng được những ưu điểm ấy chăng?
Bài mẫu số 4
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ lớn, một tài năng toàn diện đặc biệt bởi năng lực sáng tạo và thành công trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Ông viết tiểu tuyết, truyện ngắn, tiểu luận, phê bình văn học, viết kịch, soạn nhạc và sáng tác thơ, ở thể loại nào cũng tạo được dấu ấn đặc sắc.
Riêng với thơ, Nguyễn Đình Thi là một trong số những người luôn đi tiên phong trong việc thể nghiệm tìm kiếm khai phá con đường mới cho thơ Việt Nam. Kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo giữa thơ truyền thống với hiện đại, thơ Nguyễn Đình Thi đằm thắm, tinh tế, giàu nội tâm nhưng cũng sắc sảo đầy thuyết phục bởi tư duy trí tuệ.
Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước. Ông viết về đất nước gian khổ đau thương quật khởi và ngời sáng với chiều sâu lịch sử và mang tính khái quát bởi tầm cao thời đại. Và chính những bài thơ đất nước đã làm nên vóc dáng nhà thơ.
“Lá đỏ” là một trong số những bài thơ như thế được viết trước khi những đoàn quân Việt Nam bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, giải phóng hoàn toàn miền Nam nhưng đã tiên cảm được thắng lợi tất yếu của dân tộc.
Chỉ bằng bài thơ với 8 câu mà Nguyễn Đình Thi đã tái hiện một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc – cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, giải phóng Miền Nam , thống nhất đất nước.
Nguyễn Đình Thi như có duyên nợ với Trường Sơn. Vào những thập niên 30 của thế kỷ này, gia đình ông ở Luang Prabang Lào, đã vượt từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn trở về Việt Nam sinh sống. Và, theo ghi chép trong cuốn sổ tay ông để lại: vào cuối năm 1974 đầu năm 1975 ông được đi dọc Trường Sơn đến đất Nam Bộ. Nêu lên chi tiết này để thấy rằng bài thơ “Lá đỏ” được viết khi nhà thơ trực tiếp đến và sống với Trường Sơn, nó minh chứng cho sự chân thực và sống động của “chất liệu Trường Sơn” trong bài thơ “Lá đỏ”.
Trường Sơn theo cảm nhận của Nguyễn đình Thi trước hết là một thiên nhiên hùng vĩ và tươi đẹp:
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Nhà thơ đứng trên đỉnh Trường Sơn “lộng gió”, nơi không gian khoáng đạt, ở một thế đứng có thể mở được tầm nhìn rộng lớn, bao quát.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết “Trường Sơn đông nắng tây mưa/ Ai chưa đến đó như chưa rõ mình” (Nước non ngàn dặm). Thì đây, Nguyễn Đình Thi đã đứng ở trên cao của dải Trường Sơn, không chỉ “rõ mình” ông còn nhận ra sức mạnh của dân tộc Việt Nam, nhận ra thiên nhiên Trường Sơn đẹp lạ lùng: “Rừng lạ ào ào lá đỏ”.
Bao nhiêu người làm thơ về Trường Sơn. Bao nhiêu tâm tính, vẻ đẹp, sắc màu Trường Sơn đã được nhiều nhà thơ khai thác. Vậy mà những chiếc lá đỏ rực nổi bật giữa màu xanh điệp trùng của đại ngàn Trường Sơn lại chỉ “bay” vào thơ của Nguyễn Đình Thi. Thật kỳ diệu và ngỡ ngàng.
Cơn cuồng phong đã làm nên trận mưa lá đỏ ào ào tuôn đổ hào phóng và mãnh liệt như sức sống của Trường Sơn. Màu đỏ của lá phối lên bức tranh thiên nhiên nên thơ và hoành tráng, khảm vào tâm cảm chúng ta, lay động miền sâu thẳm tình yêu đất nước. Trường Sơn trở thành một địa chỉ thiêng liêng vì đó cũng là con đường dân tộc Việt Nam ra trận.
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa
Con đường ấy đầy gian khổ, khắc nghiệt. “Đoàn quân vẫn đi vội vã” với muôn bước chân mạnh mẽ điệp trùng, hối hả, nối dài như rung chuyển núi rừng, làm “nhoà trời lửa”, đạp bằng khó khăn, vượt lên nắng nôi, lửa đạn để tiến lên phía trước. Câu thơ diễn tả quang cảnh cuộc hành quân hào hùng thần tốc, gợi lên một không khí sử thi ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trong bối cảnh chung đó hiện lên một hình ảnh đẹp, một biểu tượng về cuộc chiến tranh nhân dân –“em gái tiền phương”, nữ chiến sĩ giao liên hay cô gái thanh niên xung phong. Sự có mặt của cô gái trên đỉnh Trường Sơn nơi tuyến đầu Tổ quốc đã nhắc với mai sau về cuộc chiến đấu toàn dân tham gia, trong đó có những người con gái trẻ trung xinh đẹp mảnh mai, mà lẽ ra họ sinh ra để được sống yên bình.
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường
Thơ ca những năm chống Mỹ đã khắc hoạ nhiều tư thế dáng đứng của người Việt Nam, như: dáng đứng của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất tạc vào thế kỷ ( thơ Lê Anh xuân). Tư thế của “O du kích nhỏ dương cao súng, Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu” (Thơ Tố Hữu).
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đi dọc Trường Sơn, gặp cô gái tiền phương đứng ở bên đường, ông vội vàng ghi lại bằng thơ cái hình ảnh rất tiêu biểu, rất đặc trưng, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Cái hình ảnh “vai áo bạc, quàng súng trường” rất đỗi bình dị gần gũi, thân thương như hình ảnh quê hương. Hình ảnh ấy cũng là tâm điểm nổi bật giữa rừng Trường Sơn ào ào lá đỏ, như một dấu son lịch sử.
Nhưng đoàn quân nối dài vô tận không ngừng nghỉ, nhà thơ – người chiến sĩ chỉ kịp ghi nhận cái hình dáng quê hương rồi gửi lời chào và hẹn gặp:
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn
Người đứng lại bên đường như cột mốc, như điểm tựa và đoàn quân ra đi mang theo niềm vui phơi phới, niềm tin tất thắng. Sài Gòn, cái đích của cuộc tiến công đã rất gần, con đường đi đến chiến thắng chẳng còn bao xa. Sài Gòn, điểm hẹn của bao thế hệ Việt Nam. Lời chào, lời hẹn ấy chứa đựng nhiệt huyết của tuổi trẻ, của lý tưởng độc lập tự do, của niềm lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.
Bài thơ “Lá đỏ” của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ rất thành công trong hệ thống những bài thơ viết về đất nước của ông và của cả nền thơ. Các yếu tố nghệ thuật chính làm nên thành công của “Lá đỏ” là hình ảnh, nhịp điệu và ngôn ngữ thơ.
Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm, nước non liền một dải. Con người Việt Nam đang cuốn vào nhịp sống hiện đại phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế với bao bận rộn, lo toan. Mỗi khi đọc lại bài thơ “Lá đỏ”, hay nghe ca khúc do nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ từ bài thơ này của Nguyễn Đình Thi, lại thức dậy trong chúng ta những tình cảm thiêng liêng cao đẹp: Tình yêu Tổ quốc, niềm tự hào về truyền thống cha ông. Tình cảm ấy chính là nội lực để người Việt Nam bước tiếp vững vàng trên chặng đường mới hôm nay.
Bài mẫu số 5
Trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 có âm hưởng trầm hùng của những đoàn quân nối nhau ra trận, có sự góp mặt của những em gái tiền phương phơi phới tuổi xuân nơi chiến trường và đặc biệt là niềm tin tất thắng bất diệt trong triệu triệu trái tim Việt Nam. Bài thơ Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi với ngôn ngữ chân thật đã khắc họa rõ nét điều đó.
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc, quàng súng trường
Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
Chỉ với 8 câu thơ mà Nguyễn Đình Thi đã tái hiện trọn vẹn một cuộc hành quân vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc – cuộc hành quân trên đường Trường Sơn, tiến vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bài thơ là một bức tranh đẹp, là một bản nhạc trầm hùng trong lòng người ra trận. Ba hình ảnh chủ đạo của bài thơ: lá đỏ, em gái tiền phương và đoàn quân là sự đặc tả có sức khái quát cao về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta. Đặc biệt, hình ảnh lá đỏ tạo cảm giác mạnh, mang ý nghĩa biểu trưng cho những dự cảm, dự báo về thắng lợi tất yếu của dân tộc.
Nhân vật trữ tình đã đứng ở trên cao của dải Trường Sơn, nơi có thể nhìn được bao quát cả dãy Trường Sơn hùng vĩ và cảm nhận được sức mạnh của dân tộc Việt Nam: Rừng lạ ào ào lá đỏ. Ở đây có sự liên tưởng giữa lá đỏ và đoàn quân. Lá đỏ hay chính những trái tim rực lửa căm thù đang ào ào ra trận? Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trở gió. Gió ào ạt thổi, trút lá đỏ rực trời.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn cuối, bước chân hành quân thần tốc của quân ta hối hả ra trận, bước chân đi mạnh mẽ, rung chuyển cả núi đồi, bụi đỏ bay mờ mịt nhòa trời lửa. Đoàn quân và lá đỏ hòa lẫn trong nhau, nhòa trong khói lửa Trường Sơn, đó là hình ảnh được khắc họa có tính mỹ thuật rất cao, thể hiện sự tài hoa của nhà thơ. Với ngôn ngữ chân thực và nhịp thơ mạnh mẽ, những câu thơ giản dị của Nguyễn Đình Thi đã khắc họa một quang cảnh, một không khí thật hào hùng, kỳ vĩ, mang màu sắc sử thi.
Tuy nhiên, không chỉ có những bước chân hành quân thần tốc, Trường Sơn còn trở nên mềm mại bởi những em gái tiền phương đứng bên đường làm tiền tiêu cho bộ đội.
Em đứng bên đường, như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
Nhịp thơ đang mạnh mẽ bỗng dịu lại, câu thơ dài hơn (7 chữ) như càng khẳng định nỗi xúc động của người lính trên chiến trường.
Em là giao liên, em là TNXP và em chính là hình ảnh quê hương dịu hiền, gần gũi, thân thương, chính là nơi để trở về sau trận chiến này. Hình ảnh em gái tiền phương có thể đã rất nhiều người gặp và đi vào thơ ca, nhạc họa, nhưng cách ví của Nguyễn Đình Thi đã mang đến hiệu quả nghệ thuật độc đáo, nhắc mãi tới mai sau…
Chùng xuống một chút, rồi nhịp thơ lại trở về với giọng điệu hào sảng khi miêu tả bước chân đoàn quân ra trận với niềm tin tất thắng:
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn.
Em gái tiền phương ở lại bên đường như điểm tựa niềm tin và đoàn quân ra đi mang theo hình ảnh dịu dàng, thân thương của quê hương, mang theo niềm tin tất thắng. Trong bước chân ào ào đó, ta như đã nhìn thấy ngày vui giữa Sài Gòn, đã thấy… nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng/Trào vui nước mắt cứ rưng rưng (Tố Hữu). Lời chào, lời hẹn ấy sục sôi nhiệt huyết của tuổi trẻ, chứa đựng lý tưởng độc lập, tự do, dạt dào niềm lạc quan, tin tưởng vào ngày toàn thắng.
Tổ quốc đã hát bài ca thống nhất 40 năm, đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới nhưng những năm tháng chiến tranh khốc liệt thì chưa bao giờ phai nhòa, dẫu vết thương hôm nào đã lành theo năm tháng. Và những vần thơ vút lên từ cuộc chiến anh dũng đó luôn làm sống dậy trong chúng ta tình yêu Tổ quốc, sự biết ơn về những hy sinh cao cả của thế hệ trước.
Xem thêm một số bài văn mẫu 8 hay khác:
TOP 10 Bài phân tích tác phẩm Hịch tướng sĩ (2024) SIÊU HAY
TOP 20 bài Phân tích bài thơ Đi đường 2024 CỰC CHI TIẾT
TOP 20 bài Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô 2024 SIÊU HAY
TOP 30 bài Phân tích Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi) 2024 HAY NHẤT
TOP 30 bài Phân tích bài thơ Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) 2024 SÚC TÍCH NHẤT