Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 Bài 4: Buổi sáng ở Hòn Gai
Đọc: Buổi sáng ở Hòn Gai trang 51, 52
* Nội dung chính Buổi sáng ở Hòn Gai
Nội dung chính của bài đọc là khung cảnh nhộn nhịp ở buổi sáng sớm ở Hòn Gai.
* Khởi động
Trả lời: Tiếng gà gáy, tiếng loa phường,...
* Khám phá và luyện tập
Đọc
Văn bản: Buổi sáng ở Hòn Gai
Hòn Gai vào những buổi sáng sớm thật là nhộn nhịp. Khi tiếng còi tầm vừa cất lên, những chiếc xe bò tót cao to chở thợ mỏ lên tầng, vào lò, tiếng còi bíp bíp inh ỏi, những người thợ điện, thợ cơ khí, thợ sàng rửa vội vã tới xưởng thay ca, các chị mậu dịch viên mở cửa các quầy hàng, các em nhỏ, khăn quàng đỏ bay trên vai kéo nhau tới lớp.
Dọc theo bờ vịnh Hạ Long, trên Bến Đoan, Bến Tàu hay Cảng Mới, những đoàn thuyền đánh cá rẽ màn sương bạc nối đuôi nhau cập bến, những cánh buồm ướt át như những cánh chim trong mưa. Thuyền lưới mui bằng. Thuyền giã đôi mui cong. Thuyền Khu Bốn, buồm chữ nhật. Thuyền Vạn Ninh, buồm cánh én. Thuyền nào cũng tôm cá đầy khoang. Người ta khiêng từng sọt cá nặng tươi roi rói lên chợ.
Chợ Hòn Gai buổi sáng la liệt tôm cá. Những con cá song khoẻ, vớt lên hàng giờ vẫn giãy đành đạch, vảy sáng hoa đen lốm đốm. Những con cá chim mình dẹt như hình con chim lúc sải cánh bay, thịt ngon vào loại nhất nhì. Những con cá nhụ béo núc, trắng lốp, bóng mượt như được quét một lớp mỡ ngoài vảy. Những con tôm he tròn, thịt căng lên từng ngấn như cổ tay của trẻ lên ba, da xanh ánh, hàng chân choi choi như muốn bơi.
Thi Sảnh
Câu hỏi, bài tập
Trả lời: Khi tiếng còi tầm vừa cất lên, những chiếc xe bò tót cao to chở thợ mỏ lên tầng, vào lò, tiếng còi bíp bíp inh ỏi, những người thợ điện, thợ cơ khí, thợ sàng rửa vội vã tới xưởng thay ca, các chị mậu dịch viên mở cửa các quầy hàng, các em nhỏ, khăn quàng đỏ bay trên vai kéo nhau tới lớp.
Câu 2 trang 52 sgk Tiếng Việt lớp 4 Tập 2: Cách tả những đoàn thuyền đánh cá có gì thú vị?
Trả lời: Những đoàn thuyền đánh cá được miêu tả bằng những từ ngữ gợi tả, hình ảnh cụ thể giúp người đọc dễ dàng hình dung.
Trả lời: Bởi vì hình ảnh những cánh buồm ướt át gợi cho tác giả nhớ đến những cánh chim trong mưa.
Trả lời:
Những con cá song khoẻ, vớt lên hàng giờ vẫn giãy đành đạch, vảy sáng hoa đen lốm đốm.
Những con cá chim mình dẹt như hình con chim lúc sải cánh bay, thịt ngon vào loại nhất nhì.
Những con cá nhụ béo núc, trắng lốp, bóng mượt như được quét một lớp mỡ ngoài vảy.
Những con tôm he tròn, thịt căng lên từng ngắn như cổ tay của trẻ lên ba, da xanh ánh, hàng chân choi choi như muốn bơi.
Luyện từ và câu: Câu chủ đề trang 52, 53
Trống đồng Đông Sơn đa dạng không chỉ về hình dáng, kích thước mà cả về phong cách trang trí, sắp xếp hoa văn. Giữa mặt trống bao giờ cũng có hình ngôi sao nhiều cánh toả ra xung quanh. Tiếp đến là những hình tròn đồng tâm, hình vũ công nhảy múa, chèo thuyền, hình chim bay, hươu nai có gạc,...
Theo Nguyễn Văn Huyên
Nhà cửa ở đây phần lớn xây bằng đá với sò, hai thứ vật liệu sẵn có của núi và biển. Trong nhà, ngoài ngõ đâu đâu cũng sực nức mùi cá biển. Cá thu, cá chim, cá mực, tôm hùm,... phơi đây trên sàn, trên nóc nhà, bờ tường, bãi cát. Chậu cảnh thì làm bằng những con ốc biển khổng lồ, to bằng cái mũ. Sản vật ở biển tô điểm cho phố chài một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt.
Theo Tiếng Việt 4, 2002
a. Mỗi câu in nghiêng trong từng đoạn có vai trò gì đối với cả đoạn?
b. Các câu còn lại nêu ý cụ thể hay ý khái quát của đoạn văn?
Trả lời:
Đoạn văn 1: Miêu tả trống đồng Đông Sơn.
Đoạn văn 2: Miêu tả quang cảnh ở phố chài.
a. Đóng vai trò làm câu chủ đề trong câu, khái quát nội dung của đoạn.
b. Ý cụ thể.
Trời nắng chang chang, tiếng tu hú gần xa ran ran. Hoa ngô xơ xác như hoa cỏ may. Lá ngô quắt lại rủ xuống. Những bắp ngô đã mập và chắc, chỉ còn chờ tay người đến bẻ mang về.
Trả lời: Không có câu chủ đề.
a. Trên nương, mỗi người một việc. Người lớn thì đánh trâu ra cày. Các cụ già nhặt cỏ, đốt lá. Mấy chú bé đi tìm chỗ ven suối để bắc bếp thổi cơm. Chẳng mấy chốc, khói bếp đã um lên. Các bà mẹ cúi lom khom tra ngô. Được mẹ địu ấm, có khi em bé vẫn ngủ khì trên lưng mẹ.
Theo Tô Hoài
b. Ngoài đồng, những đám kê mới gieo đã lên xanh mướt. Trên bờ suối, nấm mọc chi chít. Trên những thân gỗ mục, mộc nhĩ xoè ra như những vành tai đang lắng nghe. Dây gấc leo khắp nơi, quả chín đỏ rực. Những giàn lạc tiên dăng dăng trên các bụi rậm, từ những chùm hoa và quả bay lên một mùi thơm ngọt ngào. Đâu đâu cũng thấy dấu hiệu của sự sung túc.
Theo Vũ Hùng
Trả lời:
a. Trên nương, mỗi người một việc: câu đầu tiên.
b. Đâu đâu cũng thấy dấu hiệu của sự sung túc: câu cuối cùng.
Sáng sớm, thành phố chìm vào màn sương.
Trả lời: Sáng sớm, thành phố chìm vào màn sương. Phố xá yên tĩnh như vẫn chưa muốn thức dậy. Lác đác vài ngôi nhà đã sáng đèn.
Viết: Luyện tập viết bài văn miêu tả cây cối trang 54
Tham khảo:
Trong các loài hoa, em đặc biệt yêu thích hoa cúc họa mi trắng - loại hoa của mùa thu Hà Nội.
Cây cúc họa mi trông giống như những cây cỏ dại. Thân nhỏ dài mà mảnh mai. Lá cây cũng nhỏ mà dài như những sợi cỏ trên sân trống. Nhưng khi mùa thu đến, cây lột xác hoàn toàn, trở thành loài hoa đẹp đến ngây ngất. Hoa cúc họa mi không lớn. Khi còn là nụ, chỉ lớn chừng hạt lạc mà thôi. Khi nở bung thì lớn chừng chén trà. Nhụy hoa tròn đầy như cái cúc áo, màu vàng ruộm như rơm phơi chín nắng. Cánh hoa cúc nhỏ mà dài, mỏng manh. Cánh hoa xếp thành hai lớp, vừa không quá mỏng nhưng cũng không quá dài, tạo nên vẻ đẹp thướt tha và mềm mại. Chính vì nét đẹp ấy, mà người ta thường mặc áo dài khi chụp ảnh cùng cúc họa mi. Những bông cúc họa mi ấy mang vẻ đẹp thanh khiết, mộc mạc tuy giản dị nhưng không hề tầm thường.
Cứ mỗi khi những cơn gió heo may đầu tiên bắt đầu thổi trên ngõ ngách Hà Thành, em lại bất giác dõi theo những gánh hàng rong, để tìm hình dáng quen thuộc của những bó hoa cúc họa mi yêu dấu.
* Vận dụng
Trả lời:
Cá nhụ: trắng lốp, béo múp, bóng mượt,.
Cá song: khỏe, vảy sáng hoa đen lốm đốm.
Cá chim: mình dẹt.
Tôm he: tròn, căng lên từng ngấn, xanh ánh, nhoi nhoi.
Xem thêm các bài giải SGK Tiếng Việt lớp 4 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác: