Viết bài văn phân tích bài thơ Cánh đồng (Ngân Hoa)

Viết bài văn phân tích bài thơ Cánh đồng (Ngân Hoa)

Trả lời

Dàn ý Phân tích bài thơ Cánh đồng

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

2. Thân bài:

a. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình

- Nhan đề bài thơ: gợi ra những liên tưởng về cảnh đẹp của cánh đồng.

- Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ cảm xúc trước hình ảnh hoa cúc trong chiếc bình gốm đến khát khao giao cảm với thiên nhiên.

b. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử dụng

* Cảm xúc của nhân vật trữ tình trước hình ảnh hoa cúc trong chiếc bình gốm

- Hình ảnh thơ trong sáng, tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên: "đóa cúc", "cánh đồng mùa xuân rộng lớn", "chiếc bình gốm sẫm màu", "chiếc là già nua", "nụ hoa bé bỏng", "làn sương ẩm ướt".

- Điệp cấu trúc: "Chạm vào em một..., một...,..."

=> Tác dụng: Miêu tả đặc điểm của thiên nhiên đang tác động vào nhân vật trữ tình.

- Ngôn ngữ thơ: Sử dụng trường từ vựng gợi hình, gợi cảm: "rộng lớn", "tỏa sáng", "sẫm màu", "già nua", "bé bỏng", "run run", "ẩm ướt", "lảnh lót", "trong veo", "già nua", "bé bỏng", "nức nở", "âm u", "lặng câm", "rực rỡ".

- Câu thơ dài ngắn đan xen nhau, có những câu được tổ chức dài như một câu văn thể hiện dòng chảy miên man của cảm xúc.

- Nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm, co duỗi phụ thuộc vào cảm xúc của nhân vật trữ tình "em".

=> Tác dụng: Miêu tả vẻ đẹp, sắc thái của sự vật trong mùa xuân, thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả đối với cảnh vật mùa xuân.

* Khát khao giao cảm với thiên nhiên của nhân vật trữ tình:

- Hình ảnh thiên nhiên: "cánh đồng rộng lớn", "đất mềm tơi xốp", "trái cây đang ngủ", "hạt mầm vừa nứt, "đóa hoa nấp dưới đất cày".

=> Tác dụng: Diễn tả bức tranh thiên nhiên trong sáng, bao la, rộng lớn.

- Điệp cấu trúc:

+ "Em gọi tên"=> Tác dụng: Nhấn mạnh sự chờ đợi, khao khát và nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên.

+ "Chưa kịp" => Tác dụng: Diễn tả sức sống của thiên nhiên, đang được ấp ủ dưới lòng đất.

- Từ ngữ giàu sức gợi hình gợi cảm: "rộng lớn", "tơi xốp".

c. Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại

- So sánh với bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .

3. Kết bài:

- Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.

Phân tích bài thơ Cánh đồng - mẫu 1

Bài thơ "Cánh đồng" là bài thơ xuất sắc của nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Ngân Hoa. Tác phẩm đã đạt giải B trong cuộc thi Thơ trên tuần báo Văn nghệ năm 1995. Nổi bật trong tác phẩm là bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn, đầy nhựa sống từ đó thể hiện tình yêu và khát khao giao cảm với thiên nhiên mãnh liệt của thi sĩ Ngân Hoa. Bài thơ chứa đựng những nét hấp dẫn về mặt nội dung cũng như độc đáo về mặt nghệ thuật.

Nhan đề "Cánh đồng" gợi cho người đọc những liên tưởng về vẻ đẹp nơi thôn quê dân dã với không gian rộng lớn, bao la. Qua quá trình đọc tác phẩm, ta có thể thấy được mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình vận động theo trình tự từ cảm xúc trước hình ảnh hoa cúc trong chiếc bình gốm đến khát khao giao cảm với thiên nhiên.

Trong khổ thơ đầu tiên, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp, sắc thái của sự vật trong mùa xuân được thể hiện qua đóa cúc trên chiếc bình gốm. Câu thơ "Những đóa cúc vừa hái về từ cánh đồng mùa xuân rộng lớn" vừa lột tả được trạng thái mới hái của đóa cúc vừa gợi ra không gian cánh đồng bao la. Những đóa hoa lúc này được cắm vào chiếc bình gốm sẫm màu và tỏa sáng trên phông nền của chiếc bình hoa. Đây cũng là câu thơ mở đầu để khơi ra dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình. Biện pháp điệp cấu trúc "Chạm vào em một..., một..., ..." kết hợp với trường từ vựng vừa gợi hình gợi cảm: "rộng lớn", "tỏa sáng", "sẫm màu", "già nua", "bé bỏng", "run run", "ẩm ướt", "lảnh lót", "trong veo", "già nua", "bé bỏng", "nức nở", "âm u", "lặng câm", "rực rỡ" có tác dụng miêu tả đặc điểm của thiên nhiên đang tác động vào nhân vật trữ tình. Vẻ đẹp ấy vừa có hình vừa có tiếng như đánh thức mọi giác quan. Những sự vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên như: "đóa cúc", "cánh đồng mùa xuân rộng lớn", "chiếc bình gốm sẫm màu", "chiếc lá già nua", "nụ hoa bé bỏng", "làn sương ẩm ướt" đều được tác giả đưa vào và mô tả vô cùng chi tiết cho thấy sức sống mãnh liệt, tràn đầy sức sống của mùa xuân. Dường như, nhân vật trữ tình cũng đang đắm chìm trong những cảm xúc miên man khi đứng trước vẻ đẹp ấy. Điều này không chỉ nhận biết được thông qua từ ngữ mà còn phát hiện được qua những câu thơ dài ngắn xen kẽ nhau. Nhịp điệu thơ lúc nhanh lúc chậm, co duỗi phụ thuộc vào cảm xúc của nhân vật trữ tình "em". Tất cả đều nhằm miêu tả vẻ đẹp, sắc thái của sự vật trong mùa xuân từ đó thể hiện khả năng quan sát tinh tế của tác giả.

Dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình tiếp tục được chảy trôi trong khổ thơ tiếp theo. Không gian không còn bó hẹp trên chiếc bình gốm sẫm màu mà đã trở về với cánh đồng rộng lớn. Động từ "chạy về" diễn tả được sự chủ động của chủ thể trữ tình khi em muốn tìm về với "cánh đồng mùa xuân rộng lớn". Em tìm về với mùa xuân như tìm về với chốn bình yên, tìm về với nơi ở thân thương, quen thuộc của mình. Lúc này, em và đất như hòa vào làm một khi "chân ngập trong đất mềm tơi xốp". Câu thơ bảy chữ đem đến cho người đọc những cảm nhận về khát vọng giao hòa với thiên nhiên của chủ thể trữ tình. Biện pháp điệp cấu trúc tiếp tục được sử dụng trong hai câu thơ: "Em gọi tên những loài hoa chưa kịp mọc/ Em gọi tên những trái cây chưa kịp ra đời". "Em gọi tên" như nhấn mạnh vào sự chờ đợi, khao khát và nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong khi đó, từ "chưa kịp" lại diễn tả sức sống của thiên nhiên đang được ấp ủ dưới lòng đất. Biện pháp nhân hóa: "những trái cây đang ngủ trong hạt mầm vừa nứt/ Đang ngủ trong đóa hoa nấp dưới đất cày" càng nhấn mạnh vào sự sống tiềm tàng đang được nuôi dưỡng để chờ ngày ra trái đơm bông. Trạng thái của sự vật cũng chính là quy luật phát triển của thiên nhiên theo bốn mùa: xuân - hạ - thu - đông. Hình ảnh cánh đồng, đất cày được xuất hiện liên tục. Đất cày không là ngọn nguồn của cây trái mà còn là nơi trú ngụ bình yên trong tâm hồn của con người. Chính vì vậy, nhân vật "em" luôn muốn "chạy về", muốn định nghĩa và gọi tên những loài hoa chưa kịp mọc, những trái cây chưa thành hình. Nó cho thấy khát khao sống hòa hợp mãnh liệt của chủ thể trữ tình với thiên nhiên.

Kết thúc tác phẩm là hai câu thơ: "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm/ Chưa kịp thành hình chờ đợi các loài hoa." Tác giả đã sử dụng kết cấu đầu cuối tương ứng: mở đầu với hình ảnh đóa cúc trên chiếc bình gốm và khép lại cũng bằng hình ảnh chiếc bình gốm dưới lớp đất cày. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, chiếc bình trở thành phông nền để làm nổi bật sắc vàng của hoa cúc thì ở câu thơ cuối này, chiếc bình gốm lại ẩn nấp dưới lớp đất cày. Câu thơ "dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm" đem đến hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là chiếc bình gốm được chôn vùi dưới lớp đất cày. Cách hiểu thứ hai lại mang tính biểu tượng nhiều hơn: lớp đất cày chính là phương tiện để con người làm nên những chiếc bình gốm nên bình gốm "chưa kịp thành hình để chờ đợi các loài hoa". Càng đi sâu vào khám phá tác phẩm, ta càng nhận ra dụng ý sâu xa của tác giả về tầm quan trọng của đất đối với môi trường tự nhiên và con người. Ở khổ thơ thứ hai nhà thơ tập trung vào khả năng nuôi dưỡng của đất đối với cây trái thì khổ thơ thứ ba tác giả lại đề cao vai trò của đất đối với đời sống sinh hoạt của con người. Bình gốm không đơn thuần chỉ để cắm hoa mà còn là nơi để bày trí và tôn vinh hương sắc của cái đẹp. Hơn hết, bình được làm từ đất cho nên đất sẽ là ngọn nguồn của sự sống và là ngọn nguồn của mọi vẻ đẹp trên thế gian. Nó cho thấy tình yêu thiên nhiên mãnh liệt của thi nhân và bài học về sự gắn bó, nâng niu và hòa hợp với môi trường tự nhiên.

Phân tích bài thơ Cánh đồng - mẫu 2

Nếu như "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử đem đến cho ta những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ và khung cảnh sinh hoạt của con người để từ đó bày tỏ nỗi khát khao giao cảm với đời, với người thì bài thì "Cánh đồng" của Ngân Hoa lại đánh thức mọi giác quan cho ta cảm nhận về một cánh đồng mùa xuân tràn đầy nhựa sống. Điểm khiến cho tác phẩm trở nên thật sự khác biệt và độc đáo nằm ở thể thơ tự do với sự biến hóa khôn lường của nhịp điệu, sự phóng khoáng trong cách xây dựng hình ảnh thơ, sử dụng công trong cách tổ chức mạch thơ.

Có thể nói, bài thơ "Cánh đồng" của Ngân hoa là bài thơ đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, đem đến rất nhiều những giá trị và bài học cho người đọc về vẻ đẹp và tầm quan trọng của thiên nhiên.

Phân tích bài thơ Cánh đồng - mẫu 3

"Cánh đồng" là một trong số những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Thị Ngân Hoa, tác phẩm trong chùm thơ đạt giải B (không có giải A) cuộc thi Thơ trên báo Văn nghệ năm 1995. Bài thơ đã đem đến cho người đọc những rung động sâu sắc về vẻ đẹp cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống và tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.

Nhan đề bài thơ gợi cho người đọc hình dung về một miền quê yên bình, dân dã, có cánh đồng rộng lớn và không gian bao la. Trong quá trình đọc tác phẩm, ta có thể cảm nhận được sự biến hóa của nhịp điệu, sự phóng khoáng trong cách xây dựng những hình ảnh thơ và sử dụng công trong cách tổ chức mạch thơ.

Bài thơ đã khắc họa nên khung cảnh cánh đồng mùa xuân ngập tràn hương sắc. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân qua hình ảnh "Những đóa cúc vừa hái về từ cánh đồng mùa xuân rộng lớn". Nhân vật trữ tình đã cảm nhận vẻ đẹp của khóm cúc bằng con mắt mộng mơ của tuổi trẻ. Chỉ một đóa cúc thôi mà nhân vật trong bài đã hình dung ra cả một cánh đồng mùa xuân tươi tắn ngay trước mắt. Vẻ đẹp của cánh đồng mùa xuân không chỉ được gợi ra từ màu sắc mà còn được tái hiện bởi âm thanh "Tỏa sáng trên chiếc bình gốm màu sẫm/ Chạm vào em một chiếc lá già nua, một nụ hoa bé bỏng, một hơi thở run run, một làn sương ẩm ướt/ Chạm vào em một lảnh lót trong veo, một vang rền trầm đục, một nức nở âm u, một lặng câm rực rỡ". Các câu thơ nối tiếp nhau như dòng chảy cảm xúc và suy tưởng của nhân vật trữ tình. Điều này được thể hiện qua độ dài, ngắn của các câu thơ và nhịp thơ biến đổi linh hoạt, lúc nhanh, lúc chậm tùy thuộc vào tâm trạng nhân vật. Biện pháp điệp cấu trúc "Chạm vào em...một...một,... một" kết hợp với các từ ngữ "già nua", "bé bỏng", "run run", "ẩm ướt", "lảnh lót", "trong veo", "vang rền", "trầm đục", "nức nở", "âm u", "lặng câm", "rực rỡ" đã nhấn mạnh vẻ đẹp của thiên nhiên. Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ khắc họa tràn đầy sức sống, mọi sự vật, hiện tượng đều mang trong mình những điểm riêng biệt.

Phân tích bài thơ Cánh đồng - mẫu 4

Từ bông cúc cắm trên bình gốm, nhân vật trữ tình thả hồn mình tìm tới cánh đồng mênh mông. Động từ "chạy về" thể hiện rõ khao khát của nhân vật "em" khi nghĩ về cánh đồng rộng lớn. Đây như là một nơi yên bình mà nhân vật "em" luôn hướng tới. Trở về với cánh đồng em có thể hòa mình với thiên nhiên tươi đẹp "Chân ngập trong đất mềm tơi xốp". Biện pháp điệp cấu trúc lại tiếp tục được sử dụng trong hai câu thơ "Em gọi tên những loài hoa chưa kịp mọc/ Em gọi tên những trái cây chưa kịp ra đời" nhấn mạnh sự chờ đợi của nhân vật trữ tình. "Em" mong chờ những sự sống đang ấp ủ trong lòng đất. Biện pháp nhân hóa "Những trái cây đang ngủ trong hạt mầm vừa nứt/ Đang ngủ trong đóa hoa nấp dưới đất cày" thể hiện sức sống tiềm tàng của sự vật trong mùa xuân. Trạng thái mầm cây đang ngủ thể hiện quy luật bốn mùa của tự nhiên. Mùa xuân đến vạn vật ấp ủ trong mình sự sống bất tận. Trong khổ thơ này, tác giả đã làm nổi bật sự trân quý thiên nhiên của nhân vật trữ tình.
Kết thúc tác phẩm, nhà thơ lại nhắc tới hình ảnh "chiếc bình gốm": "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm/ Chưa kịp thành hình chờ đợi các loài hoa". Nếu như ở khổ thơ đầu, chiếc bình gốm làm nền cho những đóa cúc "tỏa sáng" thì ở khổ thơ cuối, chiếc bình gốm lại "chưa kịp" thành hình mà ẩn sâu dưới lớp đất cày chờ đón những loài hoa sắp nở. Câu thơ "Dưới lớp đất cày có những chiếc bình gốm" gợi lên nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: cách thứ nhất là những chiếc bình gốm được lấp dưới "đất cày"; cách hiểu thứ hai là "lớp đất" chính là nguyên liệu để con người tạo ra chiếc bình gốm. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn cho thấy tình cảm yêu mến thiên nhiên của "em".

Bài thơ đã gợi ra không gian cánh đồng mùa xuân tràn đầy sức sống với những hình ảnh quen thuộc: đóa cúc, đất cày, trái cây,... Cánh đồng được nổi bật lên không chỉ qua hình ảnh mà còn qua âm thanh "lảnh lót trong veo", "một vang rền trầm đục", "một nức nở âm u", "một lặng câm rực rỡ". Bằng khả năng quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, cánh đồng mùa xuân được tái hiện một cách chân thực, sống động qua ngòi bút của tác giả. Tác phẩm có cách triển khai độc đáo, các câu thơ, khổ thơ có độ dài ngắn khác nhau như dòng chảy tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sự biến hóa nhịp điệu linh hoạt khiến bài thơ như một trang tự sự. Qua tác phẩm, nhà thơ gửi gắm tình cảm yêu mến thiên nhiên thiết tha.

Nếu bài thơ "Mùa xuân chín" của nhà thơ Hàn Mặc Tử đem đến cho người đọc những cảm nhận xuyến xao về bức tranh thiên nhiên mùa xuân yên bình, khung cảnh sinh hoạt gần gũi từ đó thể hiện khát khao giao cảm với đời thì bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa lại mang đến cho chúng ta những cảm xúc khó quên về mùa xuân tươi đẹp trên cánh đồng. Điều khác biệt có thể nói tới chính là sự khác biệt trong việc xây dựng hình ảnh thơ và việc tổ chức mạch thơ (các câu thơ dài, ngắn khác nhau theo dòng cảm xúc của nhân vật).

Bài thơ "Cánh đồng" của Nguyễn Thị Ngân Hoa là một bài thơ đặc sắc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm đem lại cho người đọc những ấn tượng khó quên về khung cảnh cánh đồng mùa xuân yên bình, nơi tràn đầy kỉ niệm và khát khao của nhân vật "em". Qua đó, nhà thơ cũng bộc lộ tình yêu thiên nhiên thiết tha.