Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu  

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái  

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại  

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương  

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm  

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút; non Nghiên  

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh  

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm  

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi  

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha  

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy  

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...  

(Trích Đất Nước, trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục  Việt Nam, 2016, tr.120)  

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về sự kết hợp giữa chất chính luận và chất trữ tình trong  đoạn thơ. 

Trả lời

Phương pháp:  

- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng). 

- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.

Cách giải: 

Yêu cầu hình thức: 

- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.

- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không  mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp. 

Yêu cầu nội dung: 

I. Giới thiệu chung 

* Giới thiệu tác giả, tác phẩm: 

- Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Phong cách nghệ thuật đậm  chất triết lí, giàu chất suy tưởng. 

- Đoạn trích Đất Nước nằm trong tập trường ca Mặt đường khát vọng của được viết trong thời kì chống Mĩ.  Đoạn trích là cách định nghĩa mới mẻ về đất nước với tư tưởng bao trùm “Đất nước của nhân dân”.

* Khái quát vấn đề nghị luận: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về sự kết hợp giữa chất  chính luận và chất trữ tình trong đoạn thơ.  

II. Phân tích:

1. Cảm nhận đoạn thơ - Sự đóng góp của nhân dân trên bình diện địa lý.  

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu 

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái. 

- Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định... hòn Trống Mái ở sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên  mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có "nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu  nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp nên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy.  Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại 

99 con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương. 

- Hàng loạt những vết tích trên khắp sông núi nước Việt: vết chân ngựa Thánh Gióng để lại trăm ao đầm như hiển  hiện một thời ngoại xâm giặc giã, và truyền thống anh hùng dân tộc, chín chín con voi góp sức dựng đất tổ Hùng  Vương tái hiện quá trình dựng nước vất vả, gian lao của dân tộc.  

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm 

... 

Con cóc, con gà cũng giúp cho Hạ Long thành thắng cảnh 

- Từ con vật thiêng, con vật tưởng tượng: rồng, đến những con vật quen thuộc trong đời sống nhân dân: con cóc  con gà cũng đã hóa thân lên dáng hình xứ sở, trong tưởng tượng của nhân dân, hình sông dáng núi đều mang  dáng dấp, đều ẩn chứa những huyền tích.  

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. 

- "Nghèo" nhưng “người học trò” vẫn góp cho Đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại  Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta. 

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi 

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha 

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy 

Những cuộc đời đã hoá núi sống ta... 

- Ta có thể thấy, khắp sông núi này, từ Bắc vào Nam, đâu đâu cũng có dấu tích, cũng có những câu chuyện, những  huyền thoại, những sự hoá thân vào những danh lam, cảnh quan. Đâu đâu cũng có dấu ấn của nhân dân, chính  nhân dân đã làm nên, tạo nên những câu chuyện cho dáng núi hình sông, phủ lên đó tâm hồn, ước mong, tưởng  tượng của mình. Hay, Đất nước đã thấm sâu trong tâm hồn nhân dân, nhân dân đã tạo nên Đất nước qua tâm hồn  của mình.  

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm 

- Phép liệt kê trong câu thơ gợi lên những địa danh thân thuộc gắn liền với mảnh đất Nam Bộ: ông Đốc, ông  Trang, bà Đen, bà Điểm.. Như vậy mỗi con người mang cho mình một cái tên mộc mạc, giản dị những đã góp  nên những tên đất tên làng, mở mang thêm bờ cõi, để nước Việt mang dáng hình chữ S như bây giờ. 

2. Nhận xét về sự kết hợp giữa chất chính luận và chất trữ tình trong đoạn thơ.  

- Đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình. 

+ Ở đó nhà thơ bộc lộ lòng trân trọng sâu sắc những cuộc đời, những con người đã hoá thân một cách cao đẹp  vào hình hài của Đất Nước. Cảm xúc đó bộc lộ thật dạt dào nồng nàn và tha thiết. 

+ Lời thơ là lời tâm tình giữa anh, em, giữa ta với người. Nhưng đoạn thơ cũng là một lập luận nhằm thuyết phục  và chia sẻ nhận thức : Thiên nhiên, lịch sử, văn hoá… của Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân xây dựng, tất cả là  của nhân dân. Nhìn vào thiên nhiên sông núi tươi đẹp kia (Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, những ao đầm làng  Gióng, núi Bút, non Nghiên,…) liệu nơi nào lại không hiện diện hình ảnh nhân dân ? 

- Tính chính luận làm cho nội dung tư tưởng của đoạn thơ thêm sâu sắc. Yếu tố trữ tình làm cho đoạn thơ có sức  lay động, truyền cảm, biến tưu tưởng, quan niệm, nhận thức thành cảm hứng nghệ thuật. Sự kết hợp hai yếu tố này sao cho nhuần nhuyễn, hiệu quả thực không dễ, nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được. Đó là thành công  lớn của đoạn trích Đất Nước. 

III. Kết luận 

- Khái quát lại vấn đề đươc đặt ra ở đầu bài.