How did John feel about his fears in the end? A. He thought he had wasted time being afraid. B. He realized it was okay to be afraid. C. He hoped his grandchildren weren’t afraid of fly

How did John feel about his fears in the end?

A. He thought he had wasted time being afraid.
B. He realized it was okay to be afraid.
C. He hoped his grandchildren weren’t afraid of flying.

D. He realized that being afraid kept his safe.

Trả lời

Đáp án A

Cuối cùng, John cảm thấy như thế nào về những nỗi sợ hãi của mình?

A. Ông ấy nghĩ mình đã lãng phí thời gian để sợ hãi.

B. Ông nhận ra rằng sợ hãi cũng không sao cả.

C. Ông ấy hy vọng cháu của mình không sợ bay.

D. Ông ấy nhận ra rằng sự sợ hãi đã giữ an toàn cho ông ấy.

Thông tin ở câu: “Suddenly, I felt so silly about all the years when I couldn’t even think of getting on a plane.” (Bỗng nhiên, tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn trong suốt những năm khi tôi thậm chí còn không nghĩ đến việc bước lên máy bay.)

 

Dịch bài

Mặc dù tiếng ồn, thường được định nghĩa là âm thanh không mong muốn, là một hình thức ô nhiễm được thừa nhận rộng rãi, nó rất khó để đo lường bởi vì sự khó chịu của các cá nhân khác nhau là chủ quan và, vì vậy, nó rất đa dạng. Tiếp xúc với mức độ tiếng ồn thấp có thể gây khó chịu một chút, trong khi tiếp xúc ở mức cao hơn có thể gây ra tình trạng mất thính giác. Đặc biệt ở các khu đô thị đông đúc, tiếng ồn, phát sinh như là sản phẩm phụ của công nghệ tiên tiến, gây ra những tổn hại về thể chất và tâm lý, và làm giảm chất lượng cuộc sống của những người tiếp xúc với nó.

Không giống như mắt, có thể được bao phủ bởi mí mắt giúp chống lại ánh sáng mạnh mẽ, tai không có thứ gì che đậy, và do đó, nó luôn luôn mở và dễ bị tổn thương; tiếng ồn xâm nhập mà không cần thông qua màn bảo vệ. Tiếng ồn gây ra những phản ứng mà người nghe không thể kiểm soát được và cơ thể không bao giờ quen thuộc với chúng. Những âm thanh ồn ào theo bản năng báo hiệu sự nguy hiểm cho bất cứ sinh vật nào bằng cơ chế lắng nghe, bao gồm cả con người. Đáp lại, nhịp tim và hô hấp tăng lên, các mạch máu co lại, da trở nên nhợt nhạt và cơ căng lên. Trên thực tế, có một sự gia tăng chung trong các chức năng do luồng adrenaline phát ra do phản ứng sợ hãi, và một số phản ứng vẫn tồn tại lâu hơn tiếng ồn, đôi khi là ba mươi phút sau khi âm thanh dừng lại. Bởi vì tiếng ồn là điều không thể tránh khỏi trong một xã hội công nghiệp phức tạp, chúng ta liên tục phản ứng lại nó theo cách mà chúng ta sẽ phản ứng lại với nguy hiểm. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng tác hại của tiếng ồn và phản ứng của chúng ta có thể nhiều hơn là sự khó chịu. Nó có thể là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khoẻ thể chất và tâm lý và hạnh phúc của chúng ta, nó gây tổn thương không chỉ ở tai và não mà còn cho tim và dạ dày. Từ lâu chúng ta biết rằng mất thính giác là vấn đề sức khoẻ không nguy hiểm đến tính mạng số một của Hoa Kỳ, nhưng bây giờ chúng ta đang được nghe rằng một số trong chúng ta có bệnh tim và loét dạ dày cũng có thể là nạn nhân của tiếng ồn. Các thai nhi tiếp xúc với tiếng ồn thường có phản ứng quá khích, chúng dễ khóc và nhạy cảm hơn với các vấn đề về đường tiêu hóa sau khi sinh. Ngoài ra, ảnh hưởng tấm lí của tiếng ồn cũng rất quan trọng. Sự bồn chồn, cáu kỉnh căng thẳng, và lo lắng tăng lên ảnh hưởng đến chất lượng của sự thư giãn trong khi ngủ, và hiệu quả của các hoạt động trong thời gian thức giấc, cũng như cách mà chúng ta tương tác với nhau.

Câu hỏi cùng chủ đề

Xem tất cả