Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
- Kim Lân là cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Các sáng tác của ông thiên về chủ đề nông thôn và người nông dân nghèo với ngòi bút phân tích tâm lý nhân vật tài tình.
- Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân viết trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tác phẩm đã ngợi ca giá trị tình thần của con người ngay trên bờ vực cái chết.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên; từ đó nhận xét về cách nhìn con người của nhà văn Kim Lân thể hiện trong đoạn trích.
II. Phân tích
1. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích.
* Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần cuối của tác phẩm: bữa cơm ngày đói sau khi Tràng có vợ. a) Giới thiệu nhân vật:
- Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, cơ cực, phải tha phương cầu thực, trở thành dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Chồng bà đã mất từ sớm, nhà chỉ còn mẹ góa con côi nuôi nhau đắp đổi qua ngày.
- Cả đời bà lão long đong, lận đận, đến lúc gần đất xa trời mà vẫn không có tiền để thực hiện được ước mơ lớn nhất là lấy vợ cho con. Và giữa lúc đói kém, vào tâm điểm nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ khắp nơi, anh con trai lại lấy được vợ, đúng hơn là “nhặt vợ”.
- Sau những giây phút hỗn độn cảm xúc vừa mừng, vừa tủi, vừa lo trong buổi chiều hôm trước trước sự kiện đột ngột, đến sáng hôm nay dường như ở bà chỉ còn lại niềm hứng khởi được thể hiện trong đoạn trích.
b) Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích
* Đoạn văn bản tập trung tái hiện bối cảnh bữa cơm đón dâu mới trong ngày đói:
- Có thể nói đó là một bối cảnh thảm hại đến tội nghiệp. Lẽ thường, bữa cơm đón dâu mới không được linh đình thì cũng phải tươm tất để chào đón thành viên mới, để mở ra trang đời mới của cả gia đình. Thế mà ở đây chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn” và “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. Nhưng “cả nhà đều ăn rất ngon lành”, bởi giữa cảnh đói khát, được ăn đã là điều hạnh phúc, và có cháo để mà ăn đã là xa xỉ. Mới thấy rằng cái niêu cháo lõng bõng ấy chính là sự tươm tất, linh đình để chào đón dâu mới của gia đình nghèo ở xóm ngụ cư. Hơn thế sự “ngon lành” ấy có thể còn bắt nguồn từ tâm trạng tích cực của mỗi thành viên trong gia đình. Họ mang trong mình niềm tin và hy vọng vào những ngày sắp tới, khi đã sở hữu một mái ấm trọn vẹn.
- Trong bữa ăn, không phải đôi vợ chồng trẻ mà bà lão là người nói nhiều nhất, mà “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà bàn tính chuyện làm ăn, chuyện nuôi gà và hi vọng về đàn gà đông đúc: “- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...” Câu chuyện của bà cụ Tứ khiến chúng ta nhớ đến một bài ca dao miền Trung “Mười cái trứng”. Cũng giống như những người bình dân xưa trong những ngày tháng khốn khó, đã nuôi hi vọng về một con gà mái có thể sinh ra một đàn gà, có thể mang lại sự đủ đầy sung túc. Và cũng giống như người nông dân trong bài ca ấy, dù hết hi vọng này đến hi vọng khác bị dập tắt thì họ vẫn không hết hi vọng. Khát vọng sống, niềm tin vào tương lai vẫn bất diệt trong hoàn cảnh cơ cực nhất: “Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”
→ Bà lão đang tràn trề hi vọng và muốn khơi lên niềm hi vọng đó cho các con mình. Anh Tràng lắng nghe sự chỉ dạy, tính toán của bà, cũng không biết có đồng tình hay không, nhưng anh chỉ vâng một cách rất ngoan ngoãn. Bà đã thổi lửa khiến cho không khí gia đình trở nên ấm cúng “chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, 3 hòa hợp như thế”. Có thể thấy người con dâu mới- dù chỉ là vợ nhặt- đã mang đến một nguồn sinh khí mới, một làn gió lành cho cả gia đình.
* Trước tình huống “niêu cháo lõng bõng” đã “hết nhẵn”: niềm vui bỗng nhiên bị gián đoạn, bà cụ Tứ như đã dự tính từ trước bằng kinh nghiệm từng trải sau cả một cuộc đời gắng gỏi, đã tìm cách nối dài, níu kéo bằng nồi cháo cám đã chuẩn bị sẵn:
- Bắt đầu từ một thông báo khơi gợi sự tò mò của các con: “Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ”. Thái độ vui vẻ của bà khi nhìn các con chắc chắn đã khơi lên ở đôi vợ chồng trẻ sự khấp khởi chờ mong.
- Liền ngay sau đó, bà lão “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút”.
+ Câu văn ngắn với những từ láy liên tiếp thể hiện rất rõ tài năng ngôn ngữ điêu luyện của nhà văn Kim Lân. Lật đật là sự vội vàng, hấp tấp khi muốn trao tặng niềm vui cho các con. Lễ mễ là vì cái nồi trong tay bà trĩu nặng, trĩu nặng không chỉ ở trọng lượng vật lý mà còn trĩu nặng tình yêu thương của người mẹ nghèo dành cho các con.
+ “Cái nồi khói bốc lên nghi ngút” chưa biết là thứ gì hứa hẹn một món ăn nóng hổi đầy hấp dẫn
- “Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm”, cầm cái môi khuấy khuấy:
+ Bà múc ra bát thứ nhất trao cho con dâu, giới thiệu với thái độ vui vẻ: “Chè đây. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chè khoán là một thứ chè ngon, nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ. Đó là món ăn xa xỉ, thường chỉ được thưởng thức trong những dịp lễ tết, cúng giỗ… Bà lão cố tình nhấn nhá, gọi tên món ăn ngon là để truyền niềm vui cho các con. Có lẽ sự háo hức chờ đón trước lời giới thiệu của bà lão đã khiến chị con dâu phải hụt hẫng khi đón bát cháo cám “đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Điều đáng quý ở người con dâu là ngay sau đó chị “điềm nhiên và vào miệng”, tránh làm tổn thương niềm vui và sự cố gắng của người mẹ tội nghiệp. Chi tiết nhỏ chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng đã cho thấy rất nhiều điều về mối quan hệ ấm áp giữa mẹ chồng và nàng dâu. Tình yêu thương chân thành của bà lão thực sự đã cảm hóa được người đàn bà vừa mới hôm qua còn chao chát, chỏng lỏn trên chợ tỉnh.
+ Bà múc tiếp bát thứ hai đưa cho con trai, không hóm hỉnh giới thiệu là chè khoán nữa mà gọi thẳng tên món ăn không mấy hấp dẫn “Cám đấy mày ạ, hì”, nhưng bà vẫn giữ thái độ “tươi cười đon đả” vì “Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Đúng là đây không phải món ăn thông thường của người dân, vì không dễ ăn, chát xít và nghẹn bứ. Nhưng trong tâm điểm nạn đói khủng khiếp này, thì có cái ăn, nhu cầu tối thiểu được đảm bảo, đã là điều may mắn.
=> Sau một đêm dài, đến sáng hôm sau, ở đoạn trích văn bản, bà lão đã gói ghém tất cả những sầu lo, buồn tủi cất giữ tận đáy lòng, chỉ phơi bày ra niềm vui trọn vẹn để vun vén cho hạnh phúc của các con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.
2. Nhận xét về cách nhìn con người của nhà văn Kim Lân thể hiện trong đoạn trích.
- Cái nhìn tiến bộ của thế giới quan cách mạng: hiện thực cuộc sống luôn có sự vận động từ tăm tối, khốc liệt tới ánh sáng tương lai.
- Cái nhìn giàu tình thương và nhân ái: trân trọng, nâng niu khát khao sống và khát vọng hạnh phúc của người nông dân.
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật.