Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa Phân tích đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của T

Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: Nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.

Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.

Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:

– Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.

Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:

– Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.

Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.

Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa.

(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr.4,5)

Phân tích đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.

Trả lời

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

b.Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích một đoạn trích của “Vợ chồng A Phủ”. Từ đó, nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
*Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài, tác phẩm và đoạn trích.

* Phân tích đoạn văn

- Giới thiệu về nhân vật Mị (xuất hiện của Mị)

+ Mị âm thầm sống lẻ loi, lẫn vào những vật vô tri, vô giác: bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa

+ Mị hoàn toàn tương phản đối lập với nhà thống lí Pá Tra: Mị (cúi mặt buồn rười rượi), liệt kê với công việc của Mị thường làm tương phản với việc liệt kê về địa vị và quyền thế của gia đình nhà thống lí nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện. Tất cả báo hiệu một cuộc đời không bằng

phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao.

=> Giọng kể êm, đẹp như ru, lối trần thuật đa điểm nhìn của Tô Hoài đã   thế giới Tây Bắc hiện ra xa xăm kì diệu, thoang thoảng màu sắc hương vị cổ tích, giới thiệu nhân vật đầy hấp dẫn, thôi thúc người đọc đi tìm hiểu về số phận và cuộc đời của Mị.

- Hoàn cảnh gia đình Mị:  Cha Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới nên phải đến vay nhà thống lí, mỗi năm đem nộp lãi một nương ngô đến khi vợ chồng về già chưa trả hết nợ, vợ chết cũng chưa trả hết nợ. Món nợ ấy đã đeo đẳng suốt cuộc đời cha mẹ Mị khiến gia đình đã nghèo lại còn nghèo hơn. Cái nghèo này đến tự phong tục hôn nhân và việc vay nặng lãi kéo còng lưng cha mẹ Mị, đổ ập lên đầu cô.

- Vẻ đẹp của Mị

+ Xinh đẹp, có tài thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người say mê thổi sáo đi theo Mị. Vì xinh đẹp và tài năng nên Mị đã được rất nhiều người theo đuổi, trai đứng nhẵn vách đầu buồng Mị. Tuy nhiên, Mị đã lựa chọn cho mình một tình yêu đích thực, đó là những ngày tháng hạnh phúc Mị được sống trong tình yêu, tự do.

+ Khi nghe tin gia đình nhà thống lí muốn bắt mình về trừ nợ, Mị đã cầu xin cha Nay con đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Điều này cho thấy Mị không ham giàu sang phú quý, sẵn sàng lao động, không quản ngại gian khó để trả nợ. Câu nói này còn cho thấy Mị sẵn sàng chấp nhận sống cuộc đời gian khổ để được hưởng tình yêu, tự do, hạnh phúc. Một cô gái có ý thức đích thực về một cuộc sống thực sự, sống phải có tình yêu và hạnh phúc.

=> Mị là một hình tượng đẹp của người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị, vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng, cô xứng đáng được hưởng tự do, hạnh phúc.

- Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ

+ Nguyên nhân: Do món nợ chung thân của cha mẹ Mị và cụ thể là sự lừa gạt của gia đình nhà thống lí đối với một cô gái ngây thơ, trong sáng Mị sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị cũng thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị đã bị sập bẫy và bị bắt về làm dâu gạt nợ. Mùa xuân, cuộc đời của Mị mới bắt đầu được sống trong những ngày đầu của thanh xuân, tình yêu, hạnh phúc thì nỗi đau khổ, cay đắng ập đến.

+ Sáng hôm sau Mị mới biết ở nhà thống Pá Tra, lập tức chúng đã cho con ma xó về nhận mặt tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa Từ đây, Mị bị ràng buộc bởi phong tục hôn nhân, bị trói buộc bởi thần quyền và bị giam hãm của cường quyền, trong đầu cô đã bị đeo ba chiếc vòng kim cô như thứ bùa chú khó có thể thoát ra. Nó đã cương tỏa cuộc đời, giam hãm tuổi thanh xuân và chi phối đến suy nghĩ và hành động của Mị

=> Chỉ vì món nợ mà Mị đã phải hi sinh tình yêu, cuộc đời từ tươi đẹp sang những ngày héo tàn, giống như bông hoa đang chúm chím nở đã bị chà đạp phũ phàng.

=> Đoạn văn ngắn với nghệ thuật trần thuật linh hoạt: kể đan xen tả; ngòi bút miêu tả thiên nhiên, những sinh hoạt gắn với phong tục, tập quán rất chân thật góp phần giải thích tính cách, tâm hồn nhân vật; ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình, biểu cảm đã khái quát cuộc đời Mị với những bi kịch đau thương. Mị có tài năng, nhân phẩm tốt đẹp nhưng không được hưởng hạnh phúc. Qua đoạn văn, ta cũng thấy được sự bạo tàn, trắng trợn của cha con nhà thống lí Pá Tra. Bọn chúng đã lợi dụng đồng tiền, thần quyền để bóc lột, hủy hoại cuộc đời của những người dân nghèo.

* Nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Tô Hoài.

- Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài

+ Sử dụng ngôi kể thứ ba tạo tính khách quan, chân thực; người kể chuyện giấu mặt đứng ngoài quan sát biết hết mọi chuyện khiến câu chuyện sinh động, hấp dẫn hơn.

+ Phương thức biểu đạt chính là tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm khiến lời kể lôi cuốn, hấp dẫn hơn để trang đời của Mị dần dần được hé mở.

+ Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập khi đặt Mị trong sự tương phản với gia đình nhà thống lí Pá Tra; trong khát vọng hạnh phúc với hành động bạo tàn của thống lí để khắc họa bản chất tàn bạo của bọn thống trị miền núi và số phận bất hạnh của người lao động miền núi.

+ Không gian câu chuyện: Tây Bắc xa xôi, huyền bí; thời gian: đảo lộn không tuân theo trật tự tuyến tính cũng tạo nên sự hấp dẫn, kích thích trí tò mò từ người đọc.

- Qua nghệ thuật kể chuyện ta thấy được tài năng Tô Hoài đồng thời với nghệ thuật kể chuyện này tác giả đã thể hiện được ý đồ nghệ thuật của mình trong việc tư tưởng của chuyện cũng như làm nên “thương hiệu” của mình

d. Chính tả, ngữ pháp

Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

e. Sáng tạo

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.