TOP 50 mẫu Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề (2023) SIÊU HAY

TOP 50 mẫu Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề hay nhất, kèm theo dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 10 có thêm nhiều ý tưởng mới, giúp học sinh làm văn lớp 10 tốt nhất.

Báo cáo nghiên cứu là văn bản trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề dựa trên các dữ liệu khách quan, chính xác, đáng tin cậy. Viết báo cáo nghiên cứu là một hoạt động thực hành giúp bạn phát triển kĩ năng tìm hiểu, khám phá về đời sống xã hội và tự nhiên (con người, sự kiện, địa điểm, môi trường,…) qua tư liệu thu thập được và trình bày kết quả tìm hiểu, khám phá đó.

Vấn đề nghiên cứu có thể là một vấn đề đời sống hoặc một vấn đề gợi ra từ tác phẩm văn học mà bạn đã đọc.

Hướng dẫn Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

* Yêu cầu đối với viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề:

- Nêu được đề tài và vấn đề nghiên cứu được đặt ra trong báo cáo

- Trình bày được kết quả nghiên cứu thông qua hệ thống các luận điểm sáng rõ, thông tin xác thực.

- Khai thác được các nguồn tham khảo chính xác, đáng tin cậy, sử dụng các trích dẫn, cước chú và phương tiện hỗ trợ phù hợp, thể hiện sự minh bạch trong công việc kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có.

- Có danh mục tài liệu tham khảo ở cuối báo cáo.

* Phân tích bài tóm tắt tham khảo 

Một số dấu ấn của sử thi Ấn Độ Ra-ma-ya-na trong văn hóa Việt Nam

Phần 1: Giới thiệu vấn đề nghiên cứu

- Sử dụng cước chú cho những từ ngữ, chi tiết cần được giải thích

- Khái quát quan điểm nghiên cứu

Phần 2: Trình bày các kết quả nghiên cứu

- Luận điểm 1

  Bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm 1

- Luận điểm 2

  Bằng chứng làm sáng tỏ luận điểm 2

- Luận điểm 3 

  Bằng chứng làm sáng tỏ luận điểm 3

- Luận điểm 4

  Bằng chứng làm sáng tỏ luận điểm 4

- Sử dụng từ ngữ, câu văn chính xác, khách quan

Phần 3: Tóm tắt, mở rộng và nâng cao vấn đề

- Khẳng định kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu

- Gợi mở những vấn đề mới

* Thực hành viết theo các bước

1. Chuẩn bị viết

- Lựa chọn đề tài:

     Hãy bắt đầu bằng điều khiến bạn thấy hứng thú và quan tâm nhất sau khi đọc một tác phẩm văn học hay một tài liệu nào đó. Điều gì ở tác phẩm hấp dẫn bạn? Đâu là điều bạn muốn tìm hiểu thêm? Trong các tài liệu mà bạn đọc, liệu có điểm gì mâu thuẫn hoặc chưa sáng tỏ hay không? Ví dụ: sau khi đọc đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời, có thể bạn muốn biết thêm về đời sống của người Ê-đê. Sau khi học xong đoạn trích Héc-to từ biệt Ăng-đrô-ác, có thể bạn muốn tìm hiểu thêm về lịch sử thành To-roa và dấu tích của những địa danh được nhắc tới trong tác phẩm trên bản đồ thế giới đương đại… Sauk hi xem một bộ phim hay một tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ các nhân vật, cốt truyện trong sử thi, bạn có ý tưởng so sánh các tác phẩm đó với các sử thu thời cổ đại, … Trong số những ý tưởng đã được phác thảo ở phần trên, hãy chọn một ý tưởng mà bạn tâm đắc nhất để làm đề tài cho bài viết của mình.

- Thu nhập thông tin:

     Để có được những thông tin cần thiết cho báo cáo, nghiên cứu, bạn cần tìm đọc sách, báo có liên quan. Các tài liệu trên Internet cũng là nguồn cung cấp quan trọng mà bạn cần khai thác. Chỉ cần đánh những từ khóa có liên quan đến vấn đề nghiên cứu vào ô quy địn ở một số trang mạng hỗ trợ tìm kiếm phổ biến trên Internet, bạn có thể nhanh chóng tìm thấy đường dẫn để mở và đọc những tài liệu hữu ích. Trước khi quyết định sử dụng thông tin từ một tài liệu nào đó, xin nhớ kiểm tra độ tin cậy dựa vào những tiêu chí như: Tác giả của tài liệu là ai? Có phải chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực có liên quan hay không? Tổ chức nào công bố tài liệu hay quản lí trang mạng có tài liệu mà bạn tìm thấy? Tác giả hay tổ chức nào đó công bố tài liệu nhằm mục đích gì? Bạn có thấy nội dung của tài liệu được tình bày khách quan và thuyết phục không?

2. Xây dựng đề cương

- Trước khi xây dựng đề cương, cần tập hợp những thông tin thu thập thành các ý, xoay quanh những câu hỏi chung như: Vấn đề được chọn nghiên cứu có thể triển khai như thế nào? Những khía cạnh nào của vấn đề cần được tập trung tìm hiểu, khám phá? Vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa gì? ...

Câu trả lời cho những câu hỏi trên có thể tìm thấy trong những thông tin mà bạn đã thu thập từ bước thực hành viết ở trên hoặc sẽ thu thập thêm (nếu cần)

- Trên cơ sở các ý huy động được, bạn xây dựng thành một đề cương, sắp xếp các ý theo trật tự nhất định, chẳng hạn theo trật từ thời gian, trật tự không gian, theo logic của vấn đề, … Đây có thể coi là bản tóm tắt ngắn gọn những thông tin chính của một báo cáo nghiên cứu, vừa thể hiện cô đọng kết quả của quá trình chuẩn bị viết, vừa định hướng cho toàn bộ quá trình viết tiếp theo. Đề cương nghiên cứu có các phần sau:

+ Đặt vấn đề: Nêu rõ đề tài và vấn đề nghiên cứu

+ Giải quyết vấn đề: Trình bày các kết quả nghiên cứu chính thông qua hệ thống luận điểm, có các dữ liệu, bằng chứng.

+ Kết luận: Khẳng định kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu, gợi mở những hướng tiếp cận mới

+ Tài liệu tham kháo: Ghi rõ tác giả, thời gian công bố, tên tài liệu, nơi công bố.

    Bạn cũng có thể trình bày đề cương dưới dạng một sơ đồ, Xác định ý tưởng trung tâm và viết quan điểm nghiên cứu dưới dạng một câu, sau đó phát triển ý tưởng trung tâm thành các ý chính, ý phụ và lựa chọn các dữ liệu, bằng chứng, đề làm sáng tỏ các ý. 

3. Viết 

Viết bài theo dàn ý đã lập.

4. Chỉnh sửa, hoàn thiện

Tự rà soát lại báo cáo nghiên cứu của mình theo các tiêu chí sau đây:

- Phần giới thiệu nêu rõ được vấn đề nghiên cứu, gây được sự chú ý và hấp dẫn đối với người đọc

- Các luận điểm chính đã được làm sáng tỏ qua những dữ liệu, bằng chứng xác thực, đáng tin cậy

- Các phần được sắp xếp theo trật tự logic, có sự liên kết chặt chẽ, không có sự trùng lặp

- Không có các thông tin thừa, không liên quan trực tiếp đến đề tài

- Bài viết đảm bảo tuân thủ các quy định về chính tả, không mắc lỗi từ ngữ và câu

Dàn ý chi tiết viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

Dàn ý chi tiết số 1

a. Đặt vấn đề:
- Nêu rõ đề tài và vấn đề nghiên cứu.

b. Giải quyết vấn đề:
* Kiến trúc nhà ở của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời":
- Gắn liền với hình ảnh nhà sàn dài.
- Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình thức của thang, cột sàn và cách bố trí vật dụng trên mặt bằng sinh hoạt.
* Sinh hoạt của người Ê-đê trong không gian nhà ở trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời".
- Không gian nhà dài chính là nơi cư trú của người dân Ê-đê.
- Tại đây diễn ra rất nhiều hoạt động gắn liền với văn hóa của người Ê-đê.
- Đồ vật trong nhà biểu thị sự giàu có, uy nghi, quyền lực.

c. Kết luận
- Khẳng định kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.

Dàn ý chi tiết số 2

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, đoạn trích.

2. Thân bài:
2.1. Tóm tắt nội dung chính của đoạn trích: kể về sự kiện chủ soái quân đội thành Tơ-roa - Héc-to về thăm nhà và chia tay vợ con trước khi ra trận. Giây phút gặp nhau tại cổng Xkê, hai vợ chồng đã bày tỏ nỗi niềm cùng những suy nghĩ của mình về mọi chuyện sắp tới.
2.2. Chủ đề của đoạn trích: ca ngợi vẻ đẹp lí tưởng của con người trong chiến tranh.
2.3. Phân tích đánh giá chủ đề của đoạn trích:
* Vẻ đẹp lí tưởng của con người trong chiến tranh được thể hiện qua:
- Héc to và Ăng-đrô-mác luôn có ý thức sâu sắc về bổn phận và trách nhiệm đối với cộng đồng.
- Dù biết khó khăn, nguy hiểm luôn cận kề, Héc-to vẫn can đảm đối diện.
+ Héc-to mang trong mình lòng nhiệt huyết.
+ Héc-to luôn muốn bảo vệ những người thân yêu.
+ Héc-to biết đặt danh dự, lợi ích tập thể lên trên tình cảm cá nhân riêng tư.
2.4. Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật:
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua hành động, lời nói.
- Nhịp điệu chậm rãi, lời kể tỉ mỉ, lặp đi, lặp lại các cụm từ miêu tả đặc điểm cố định của nhân vật.
- Cốt truyện hấp dẫn.

3. Kết bài: Khẳng định lại giá trị của đoạn trích.

Viết bài văn báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

Viết bài văn báo cáo nghiên cứu về một vấn đề hình thức biểu diễn sử thi trong đời sống những người dân Ê-đê

Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề KNTT

Bài văn mẫu số 1

1. Đặt vấn đề

     Sử thi Ê đê ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.

2. Giải quyết vấn đề

     Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam. Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk, phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt Nam. Người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca. Thực chất đây là một hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.

     Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất – thế giới mà con người và thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.

3. Hình thức hát kể sử thi

     Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình thường giản dị của buôn làng…

     Ngôn ngữ hát kể của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê). Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.

     Trong sử thi thường nhắc nhiều về những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn làng giàu có của các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn, Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người kể, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm rẫy và bến nước đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi lên rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, sự sinh sôi, nẩy nở khi tiếp nhận ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời là sự báo ứng của những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.

     Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có đoạn kể: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước trong bầu rửa mặt. Sau đó, vít cần rượu và tiếp tục uống. Càng uống nước trong ché càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ về gấp cho em gái mình H’Ling kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê tỏ tình với H’Bia Ling Pang.

4. Ảnh hưởng của sử thi đối với dân tộc Ê đê.

     Với bất cứ sử thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó trong làng thì sẽ có câu trả lời khéo léo. Đó là: “Nhìn cột nhà sàn nó dài hơn nhà khác, có nhiều cái bành voi để ngoài hiên, cầu thang rộng bằng trải ba chiếc chiếu. Cầu thang rộng đến nỗi những chàng trai xuống một lúc năm, các cô gái thì xuống được ba người, con heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe tưởng tượng về ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn từ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà trong chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực với không gian hiện thực.

     Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhảy xuống sàn hiên, từ sàn hiên nhảy qua ngạch cửa, từ ghế Jhưng (ghế chủ nhà), nhảy đến chỗ ngồi đánh Jhar (chiêng lớn tiếng ngân vang), từ chỗ đánh Jhar đến chỗ đánh chiêng (ghế kpan), từ chỗ đánh chiêng nhảy đến chỗ đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung ra những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi vào qua các vị trí đặt chiêng, chỗ để của những vật dụng (như jhưng, kpan, thứ tự từ gian ngoài đi vào gian trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây là một nhà giàu có nhất trong buôn làng

     Tại không gian lễ hội bỏ mả của người Êđê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ tạm dừng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng của dân tộc mình cho mọi người nghe. Đây là hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên đống lửa bập bùng tại không gian nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng nghìn người nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và khách gần xa ngồi im lặng say sưa lắng nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho đến khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu ông mặt trời đã thức giấc thì nghệ nhân hát kể sử thi mới dừng câu chuyện lại để chuẩn bị cho các nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Ở đây, lễ hội bỏ mả được tổ chức bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến dự lễ được nghe kể sử thi bấy nhiêu đêm.

5. Kết luận.

Sử thi Ê đê, chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như một cách để bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên truyền nét đẹp này đến với nhiều đồng bào dân tộc khác.

Bài văn mẫu số 2

1. Đặt vấn đề

Sử thi "Đăm Săn" là pho sử thi nổi tiếng của người Ê-đê. Đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời" là một trong những trích đoạn tiêu biểu kể lại hành trình chinh phục Nữ Thần Mặt Trời của người anh hùng Đăm Săn. Đồng thời, nó còn phản ánh diện mạo đời sống tinh thần, niềm tin cộng đồng người Ê-đê. Thông qua đoạn trích, không gian sinh hoạt của người Ê-đê được hiện lên rõ nét và trở thành một điểm nhấn thú vị, đáng để khám phá.

2. Giải quyết vấn đề

a. Kiến trúc nhà ở của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời"

Trước hết, kiến trúc nhà ở của người Ê-đê trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời" gắn liền với hình ảnh nhà sàn dài. Nhà sàn dài là kiến trúc độc đáo và đặc biệt của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Đặc trưng của nhà dài Tây Nguyên bao gồm: hình thức của thang, cột sàn và cách bố trí vật dụng trên mặt bằng sinh hoạt. Điều này được miêu tả rất rõ trong đoạn trích ở các chi tiết: "Chồm lên hai lần, chàng leo hết cầu thang. Chàng giậm chân trên sàn sân, hai lần sàn sân làm như vỗ cánh, bảy hàng cột nhà chao qua chao lại từ đông sang tây", "cầu thang trông như cái cầu vồng", "tòa nhà dài dằng dặc", "voi vây chặt sàn sân", "các xà ngang xà dọc đều thếp vàng". Hình ảnh nhà sàn dài dằng dặc, cầu thang, xà ngang xuất hiện nhiều lần và được lặp đi lặp lại cho thấy dấu ấn kiến trúc nhà ở đặc trưng của đồng bào người Ê-đê. Tuy kiến trúc nhà ở không được miêu tả một cách tỉ mỉ nhưng những hình ảnh tiêu biểu như vậy cũng đủ để làm đồng hiện nền văn hóa đặc sắc của vùng Tây Nguyên.

b. Sinh hoạt của người Ê-đê trong không gian nhà ở trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời"

Không gian nhà dài chính là nơi cư trú của người dân Ê-đê. Tại đây diễn ra rất nhiều hoạt động gắn liền với văn hóa của người Ê-đê như hội họp, ăn mừng, kể chuyện sử thi, tổ chức nghi lễ thờ cúng thần linh,... Đoạn văn trong đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời" đã miêu tả lại khung cảnh của người dân như sau: "tôi tớ trải dưới một chiếu trắng, trải trên một chiếu đỏ làm chỗ ngồi cho nhà tù trưởng. Rồi họ đem thuốc sợi cả hòm đồng, thuốc lá cả sọt đại, trầu vỏ cả gùi to, không còn sợ thiếu thuốc thiếu trần cho Đăm Săn ăn, hút. Họ đốt một gà mái ấp, giết một gà mái đẻ, giã gạo trắng như hoa êpang, sáng như ánh mặt trời, nấu cơm mời khách. Họ đi lấy rượu, đem một ché tuk da lươn, một ché êbah Mnông, trên vẽ hoa kơ-ụ, dưới lượn hoa văn, tai ché hình mỏ vẹt xâu lỗ. Đó là những cái ché ngã giá phải ba voi. Ai đi lấy nước cứ đi lấy nước, ai đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cần cứ cắm cần. Cần cắm rồi, người ta mời Đăm Săn vào uống.". Các vật dụng xuất hiện trong đoạn văn như: ché tuk, ché êbah, là những đồ vật được làm bằng gốm với hình hoa văn đa dạng, được xem là những đồ vật quý của người Ê-đê. Nó biểu thị cho sự sung túc, giàu có, phải "ngã giá bằng ba voi" mới có được.

Hơn nữa, đoạn văn còn làm nổi bật được hoạt động và tính cách của người dân Ê-đê. Để thiết đãi vị tù trưởng Đăm Săn - vị khách quý của buôn làng, người dân nô nức thi nhau mang ra những món ăn ngon nhất, những loại thuốc quý nhất để thiết đãi: thuốc sợi, thuốc lá, trầu vỏ, gà mái ấp, gà mái đẻ, gạo trắng. Người Ê-đê hiện lên với nét tính cách xởi lởi, hào phóng, nồng hậu. Những hoạt động thiết đãi tù trưởng Đăm Săn cũng chính là những hoạt động của dân làng khi tiếp đón những vị khách quý từ phương xa.

Bên cạnh đó, chi tiết "chiêng xếp đầy nhà ngoài", "cồng chất đầy nhà trong" và "ai đánh chiêng cứ đánh chiêng, ai cắm cần cứ cắm cần" đã phản ánh phong tục đánh cồng chiêng và uống rượu cần của người dân vùng Tây Nguyên. Cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà nó còn chứa đựng giá trị văn hóa của cộng đồng người Ê-đê. Chính vì vậy, chi tiết Đăm Săn đến nhà Nữ Thần Mặt Trời thấy hình ảnh "chiêng xếp đầy nhà ngoài, cồng xếp đầy nhà trong" biểu thị cho sự quyền lực và giàu có. Người Ê-đê tin rằng: mỗi một chiếc cồng đều ẩn chứa một vị thần cho nên càng nhiều cồng, cồng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Ngoài ra, tục uống rượu cần cũng là một nét đẹp văn hóa trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Rượu cần trong đoạn trích chính là phương tiện để gắn kết tình cảm giữa người tù trưởng Đăm Săn và Đăm Par Kvây. Rượu không chỉ đóng vai trò trong các buổi thực hành nghi lễ để cầu xin đấng thần linh mà nó còn thể hiện đầy đủ tinh thần tập thể của cộng đồng, lòng mến khách của chủ nhà.

Có thể nói, những vật dụng trong căn nhà của người Ê-đê không chỉ gắn liền với hoạt động sống mà còn phản ánh được tính cách, sự giàu có, phồn vinh của cả một cộng đồng.

3. Kết luận

Đoạn trích "Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời" là đoạn trích quan trọng của sử thi "Đăm Săn". Đoạn trích không chỉ khắc họa vẻ đẹp phi thường, khát vọng mãnh liệt của người anh hùng Đăm Săn mà qua đó, chúng ta còn thấy được những nét đẹp văn hóa, đặc biệt là không gian sinh hoạt của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Sử thi "Đăm Săn" cho thấy kiến trúc nhà dài, vật dụng gắn liền với sinh hoạt và lối sống, tính cách của đồng bào người Ê-đê. Các giá trị vật chất, tinh thần của người Ê-đê trong thời đại mới cần phải được bảo tồn và phát huy hơn nữa.

Bài văn mẫu số 3

Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Luôn tiếp xúc với thiên nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người đã hình dung, lý giải thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra cho các hiện tượng xung quanh  mình những hình ảnh sáng tạo, những câu chuyện phong phú, hình dung ra các vị thần lớn lao, những lực lượng siêu nhiên, hữu linh. Bằng cách đó, con người đã làm ra thần thoại. Thần thoại Việt Nam đã là nguồn tư liệu quý giá cho tất cả các ngành khoa học xã hội ngày nay. Thần thoại tuy không phải là tài liệu sử học thực sự nhưng vì nó đã phản ánh ít nhiều tình trạng sinh hoạt xã hội loài người trong lịch sử, vì vậy các sử gia phong kiến Việt Nam xưa trong khi viết sử đã tham khảo nhiều ở thần thoại. Việc đặt thần thoại lên đầu quyển sử, làm thành một phần Ngoại kỷ như Ngô Sĩ Liên tuy là “Không chính xác nhưng cũng nói lên một điều là thần thoại đã có cống hiến trong chừng mực nào đó cho lịch sử, là cái bóng của những sự việc lịch sử đời xưa” (Nguyễn Đổng Chi)Thần thoại còn đặt nền móng cho tôn giáo. Đối với người nguyên thuỷ thì chưa có tôn giáo, mà vạn vật đều hữu linh, thần thoại đã tạo nên tín ngưỡng bái vật giáo nguyên thuỷ, là dây nối giữa vật tổ và thị tộc, thần thoại dần dần đã tô điểm, bổ sung và làm nền móng cho thế giới thần của tôn giáo. Thần thoại còn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tác văn học nghệ thuật, mỹ học, hội hoạ, v.v...

Sử thi là những táᴄ phẩm tự ѕự dân gian ᴄó quу mô lớn, ѕử dụng ngôn ngữ ᴄó ᴠần, nhịp, хâу dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể ᴠề một haу nhiều biến ᴄố lớn diễn ra trong đời ѕống ᴄộng đồng ᴄủa ᴄư dân thời ᴄổ đại. Văn học sử thi hướng tới cái chung, cái cao cả, sự kiện lịch sử, số phận toàn dân, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nó thường phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Sử thi không phải là những số phận cá nhân mà là tiếng nói của cộng đồng, của dân tộc trước thử thách quyết liệt. Nhân vật trung tâm không đại diện cho con người cá nhân, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, thời đại với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Con người sống chủ yếu với hiện tại và tương lai. Là tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế hệ.

Bài văn mẫu số 4

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

Viết bài văn báo cáo nghiên cứu về một vấn đề văn học dân gian

Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác

Tài liệu VietJack

Bài văn mẫu số 1

Sử thi là tác phẩm dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần nhịp xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng hào hùng. Kể về một hay nhiều biến cố lớn xảy ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại và các sự kiện trọng đại ở trong quá khứ. Đến với văn bản “Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác” trích trong sử thi I-li-át của Hô-me-rơ ta sẽ thấy rõ ràng hơn về hiện thực lúc người anh hùng phải từ bỏ vợ con, từ bỏ tình cảm cá nhân để hi sinh vì sự nghiệp chung cho dân tộc. Hiện lên một hình tượng anh hùng có những vẻ đẹp và đức tính đáng trân trọng, đồng thời giúp ta tìm hiểu những biến cố dẫn đến việc từ biệt – biến cố đặc trưng của thể loại sử thi.

Tác giả Hô-me-rơ trong văn học sử được mệnh danh là một thiên tài nghệ thuật, là nhà thơ vĩ đại của dân tộc Hi Lạp, một người là một người bị mù nghèo khổ nhưng nói đến tài năng của ông là không kể xiết. Hô-me-rơ có vốn kiến thức văn học dân gian đáng kể, am hiểu về cuộc sống của con người nên vốn sống rất sâu rộng, viết nhiều tác phẩm sử thi mang giá trị to lớn. Với tác phẩm “I-li-át” người đọc thấy rõ hơn về một tác phẩm tiêu biểu của sử thi, cốt truyện được huyền thoại hóa và hơn nữa “I-li-át” ngợi ca vẻ đẹp lí tưởng của con người trong chiến tranh Iliat là bản trường ca khắc họa bức tranh chiến trận thời kì chiến tranh bộ lạc và lí tưởng anh hùng của thời đại Homer. Tác phẩm đã khắc họa mẫu người anh hùng của thời đại, nhưng lại mang sắc thái riêng, không giống ai. Đồng thời “I-li-át” là bài ca nhân đạo mang tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện ước mơ khát vọng, tư tưởng của thời đại bấy giờ. Văn bản “Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác” là đoạn trích trong sử thi I-li-át kể về sự việc người anh hùng Héc-to về thăm và chia tay vợ con trước khi lên đường ra chiến trận, nổi bật hình tượng người anh hùng sử thi với những vẻ đẹp không ai sánh bằng.

Biến cố trong văn bản chính là một biến cố đặc trưng trong sử thi, người chiến binh anh hùng luôn phải tự lựa chọn giữa tình cảm gia đình và lý tưởng chiến đấu vì tổ quốc. Người vợ Ăng-đrô-mác muốn chàng từ bỏ chiến trận về đoàn tụ với vợ con, còn Héc to thì không muốn từ bỏ lí tưởng anh hùng của mình, chàng muốn ra trận để không phải hổ thẹn với những người anh em với những chiến binh khác và phu nhân của họ. Khi Ăng-đrô-mác lo ở chiến trường khốc liệt, lo chồng mình không thể giữ được cái mạng nhưng Héc-to là người đã quen ở tuyến đầu chàng là người mang vinh quang dành cho bản thân và gia đình vậy nên lòng tự tôn và kiêu hãnh càng không cho phép chàng ở lại với vợ con. Biến cố lớn nhất có thể kể đến đó là việc người anh hùng phải cân bằng hay lựa chọn giữa và hi sinh vì sự an nguy của tổ quốc. Héc-to là một người anh hùng với những đặc điểm nổi bật “lẫy lừng” “mũ trụ sáng loáng ánh đồng sáng loá”, cái ngủ bờm ngựa cong cong, hồn hậu, mũ trụ đồng thau sáng loáng. Là một người anh hùng dũng cảm và có lí tưởng chiến đấu. Chàng quyết định nghênh chiến với quân Hi Lạp dù vợ của mình là Ăng-đrô-mác hết mực ngăn cản là bởi lòng tự tôn và ý chí người anh hùng không cho phép chàng làm kẻ hèn mọn nhát gan đứng ngoài cuộc chiến, chàng không muốn phải hổ thẹn với anh em, với những chiến binh và bao người phụ nữ thành Tơ roa. Chàng quen là người đứng đầu luôn giành chiến thắng về cho thân phụ và bản thân nên không thể trở thành kẻ hèn mọn. Chàng muốn chiến đấu vì thành tơ roa bởi chàng biết một khi thành tơ roa thất thủ thì em trai với chàng và những người thân thiết bên cạnh chàng sẽ mất hết tự do phải đi làm nô lệ tù đày chàng không muốn để họ phải khổ sở nên phải đi chinh chiến cho cuộc sống bình yên. Vị anh hùng ấy thật ra cũng là một người chồng hết mực thương vợ, người cha mẫu mực. Những hành động chàng nhanh đi tìm kiếm người vợ Ăng-đrô-mác của mình, đến và ôm người con vào lòng, những cử chỉ thân mật, lời nói ấm áp chân thành dành cho vợ con đều xuất phát từ nội tâm đẹp đẽ của chàng, là một người anh hùng nhưng chàng cũng biết yêu, cũng có tình cảm riêng của mình nhưng lại sáng suốt, lại là một người biết phân biệt rạch ròi giữa tình cảm cá nhân và lợi ích của cộng đồng dân tộc biết cân bằng các mối quan hệ xung quanh. Là một người có trách nhiệm, kiên cường và có lòng tự tôn cùng sự kiêu hãnh, chàng không thể ích kỷ, thỏa mãn cái lợi ích cá nhân để bỏ mặc đồng đội, bỏ mặc những người dân người anh em tin tưởng mình. Hành động dũng cảm và dứt khoát ấy thể hiện lí tưởng của anh hùng trong hoàn cảnh khó khăn. Chính tính cách quả cảm cương trực và quyết đoán là đại diện cho hình tượng người anh hùng thời cổ đại, là người lí trí, dũng cảm và không ngại hi sinh cho nghiệp lớn.

Trong tác phẩm ta còn thấy một hình tượng nhân vật cũng không kém phần đặc sắc. Ăng-đrô-mác hiện lên là một người vợ hiền với cánh tay trắng ngần xống áo thướt tha trang phục diễm lệ hiền thục cao quý dịu dàng, nàng một lòng vì gia đình của mình, để khi nghe tin xấu nàng không thể bình tĩnh, lo lắng và cầu mong cho người chồng của mình. Khi gặp chồng “nước mắt đầm đìa” “xiết chặt tay Héc to” “nức nở”, yếu đuối khi nghe chàng nói về lí tưởng “ôm chặt con vào bầu ngực thơm tho, cười qua hàng lệ” đến lúc chàng ra đi “nàng bước về nhà hàng lệ tuôn rơi chốc chốc lại ngoái nhìn qua bóng hình phu quân yêu quý”. Ăng-đrô-mác đã mất đi những người thân yêu của mình bởi A-khin , bởi chiến trận Hơn ai hết, Héc-to là người thân yêu nhất của Ăng-đrô-mác . Ăng-đrô-mác không muốn Héc-to ra trận vì không muốn chàng phải mạo hiểm, bị sát hại, không muốn con thơ thành đứa trẻ mồ côi cha, mà bản thân mình cũng trở thành góa phụ. Trong lòng nàng, nàng đã coi Héc-to là người thân kính yêu duy nhất của mình, không chỉ là chồng mà còn là cha, là mẹ, là anh chỗ dựa lớn nhất của nàng nên rất sợ mất đi Héc-to.“Héc to chàng hỡi, giờ đây với thiếp, chàng là cha và cả mẹ kính yêu; chàng là cả anh trai duy nhất, là đức lang cao quý của thiếp”. “Xin chàng hãy rủ lòng thương thiếp và con mà đừng ra trận…đừng để trẻ thơ phải mồ côi, vợ hiền thành góa phụ”…lời nói như đau tận tâm can, nàng giờ chẳng còn ai, chỉ còn người chồng mà mình hằng ngày yêu thương nhưng người chồng ấy đến nay cũng đang gặp phải nguy hiểm. Đây là những thời cầu xin chân thành thốt ra từ một người phụ nữ yêu chồng thương con rất tha thiết với gia đình và luôn khát khao hạnh phúc. Đến đây là nhìn thấy một Ăng-đrô-mác – người phụ nữ cảm tính thiên về cảm xúc đôi khi lo lắng đến mất đi lí trí nhưng đó cũng chính là tính cách chung của những người phụ nữ có chồng đi chinh chiến trong sử thi. Vấn đề nhân sinh được đặt ra hơn hết là việc hi sinh hạnh phúc gia đình để nghĩ tới hạnh phúc an nguy của cả một dân tộc, người anh hùng đã biết đặt tình cảm cá nhân lồng trong tình cảm lớn đối với dân tộc, hi sinh mình để cứu đỗi lại sự bình yên cho mọi người, cho những người tin tưởng chàng và cả những người chàng yêu quý. Dường như ta nhận thấy rằng, xã hội loạn lạc, chiến tranh khốc liệt khiến cho loài người và vũ trụ đều không thể sống một cuộc sống bình yên, mái ấm gia đình dần tan tác, đổ vỡ, những tình cảm rất đỗi bình dị của con người cũng không thể nào đáp ứng nổi trong thời buổi khủng hoảng ấy. Có chăng phải biết hi sinh bản thân mình, gạt những tình cảm cá nhân, gạt đi những năm tháng trọn vẹn bên gia đình để hướng tới một lí tưởng cao cả hơn tốt đẹp hơn đó chính là chiến đấu vì tổ quốc vì nhân loại, sẵn sàng hi sinh để đổi lại năm tháng bình yên hạnh phúc, đây là một niềm can đảm và cũng thật đáng quý, đáng trân trọng.

Những vấn đề trong tác phẩm về tình cảm vợ chồng, tình mẫu tử hay lí tưởng sống này vẫn có ý nghĩa trong xã hội ngày nay vì đây là những vấn đề mà gần như cá nhân nào cũng sẽ gặp phải. Và trong xã hội hiện nay, việc chỉ sống cho mình mà quên đi những lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, sống ích kỉ đang ngày càng phổ biến, bên cạnh đó vẫn có những bạn trẻ không có lý tưởng sống nên việc đưa những vấn đề nhân sinh này vào chương trình giáo dục là một điều rất cần thiết.

Đoạn trích đã khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng Héc-to – bức tranh đại diện cho những người anh hùng Hy Lạp cổ đại với những phẩm chất tiêu biểu như can đảm, dũng cảm, tự trọng và không sợ cường quyền. Thấy được sự kiên cường, dũng cảm và công tâm của người anh hùng khi phải lựa chọn giữa lợi ích gia đình và cộng đồng, cảm nhận được tấm lòng và sự cương quyết của người anh hùng với những giẳng co nhưng cuối cùng vẫn nhất quyết lựa chọn ra chiến trận vì lợi ích của cộng đồng. Gợi ra bài học về việc phải lựa chọn giữa việc thực hiện bổn phận với cộng đồng và gia đình cho mỗi cá nhân. Giúp người đọc cảm nhận được phần nào không khí chiến tranh ác liệt gay go thời kì đó và thái độ tôn trọng, ngưỡng mộ đối với các nhân vật anh hùng.Văn bản xây dựng nhân vật người anh hùng Héc-to theo đúng motip của người anh hùng trong sử thi, thể hiện được những nét đặc trưng điển hình của kiểu nhân vật người anh hùng. Ngôn từ, giọng văn rành mạch, kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm, tự sự. Thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại sử thi, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.

“Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác” được coi là một trong những cảnh ấn tượng nhất trong sử thi I-li-át và trong lịch sử văn học nhân loại. Nhà nghiên cứu văn hóa Hy-lạp cổ đại M.Ga-xpa-rốp khẳng định: “…sự tương phản của bầu không khí chiến tranh hung hiểm với cuộc sống gia đình êm ấm” trong tình tiết này đã tạo nên ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ đọc giả. Và đến nay tác phẩm vẫn mang về nhiều thành công lớn và ở sâu trong trái tim người đọc một niềm trân trọng và nâng niu.

Bài văn mẫu số 2

Sử thi "I-li-át" là một sáng tác tiêu biểu của nhà thơ người Hy Lạp cổ đại - Hô-me-rơ. Trong đó, đoạn trích "Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác" được trích từ khúc ca VI đã khắc họa chân thực vẻ đẹp lí tưởng của con người trong hoàn cảnh chiến tranh thông qua hai nhân vật Héc-to và Ăng-đrô-mác.

Sau khi quân A-kê-en nhất thời giành khí thể áp đảo, Héc-to vội vàng quay trở về nhà để nói lời chia tay vợ con. Tuy nhiên, lúc về tới nhà, nàng Ăng-đrô-mác đã mang theo con thơ tới tòa tháp lớn trong thành. Biết được chuyện này, Héc-to nhanh chóng ngược xuôi kiếm tìm. Cuối cùng, chàng gặp vợ tại cổng Xkê - bước qua đó là bình nguyên ngoài lũy thành. Trong giây phút gặp gỡ ngắn ngủi, hai vợ chồng đã bày tỏ nỗi lo lắng cùng suy nghĩ của bản thân. Nhờ cuộc đối thoại này, phẩm chất, tính cách ở hai nhân vật được bộc lộ một cách chân thực. Qua đó, tác giả Hô-me-rơ gửi gắm lời ngợi ca vẻ đẹp lí tưởng của con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Và đây cũng là chủ đề bao trùm toàn bộ đoạn trích.

Trước hết, Hô-me-rơ tập trung miêu tả vẻ đẹp lí tưởng ấy thông qua người anh hùng Héc-to. Là vị hoàng tử một đất nước, là chủ soái quân đội, Héc-to luôn ý thức sâu sắc về trách nhiệm và bổn phận bảo vệ thần dân, quốc gia. Mặc dù biết chắc con đường phía trước sẽ có chông gai, nguy hiểm "Phu nhân ơi, cả ta cũng lo lắng khôn nguôi về mọi điều nàng nói" nhưng chàng không lựa chọn khuất phục. Lòng nhiệt huyết chiến đấu không cho phép chàng làm như vậy. Bản lĩnh can trường của vị anh hùng đã thôi thúc Héc-to chiến đấu. Đó là chiến đấu vì thần dân thành Tơ-roa. Đó còn là chiến đấu vì gia đình thân yêu, vì vinh quang của đức vua cha và chính bản thân. Như vậy, vẻ đẹp lí tưởng ở người anh hùng cộng đồng càng thêm sáng ngời. Héc-to đã vô cùng sáng suốt khi đưa ra lựa chọn đặt lợi ích tập thể lên trên tình cảm cá nhân. Mặc dù rất yêu vợ con, gia đình nhưng chàng không vì thế mà mù quáng. Héc-to học được cách cân bằng các mối quan hệ, biết phân chia rạch ròi việc riêng và việc chung. Từ đây, suy nghĩ, hành động thấu đáo, lòng can đảm đã khắc họa thành công vẻ đẹp lí tưởng của vị hoàng tử Héc-to khi đứng trước tình cảnh chiến trận.

Ngoài nhân vật Héc-to, tác giả Hô-me-rơ còn gợi lên vẻ đẹp lí tưởng qua nhân vật nàng Ăng-đrô-mác. Nàng không chỉ là người phụ nữ yêu chồng con, gia đình thắm thiết mà còn là người có ý thức sâu sắc về trách nhiệm. Với thân phận cao quý - vợ của hoàng tử Héc-to, nàng luôn nhận thức được bổn phận ở bản thân. Chính vì thế, nàng thường cùng các phu nhân thành Tơ-roa đi đến đền thờ A-tê-na dâng lễ cầu xin nữ thần nguôi giận mà rủ lòng thương. Khi đứng trước lựa chọn hạnh phúc gia đình và vận mệnh dân tộc, nàng cũng có sự lựa chọn đúng đắn. Nàng đã tiễn biệt phu quân yêu dấu ra chiến trận dù trong lòng vẫn còn lưu luyến, ngổn ngang.

Với cốt truyện hấp dẫn, thú vị, Hô-me-rơ đã mang đến một câu chuyện ý nghĩa về tình cảm gia đình và đất nước. Ông còn rất thành công trong việc xây dựng nhân vật thông qua hành động, lời nói. Điều này giúp các nhân vật dễ dàng bộc lộ suy nghĩ, tình cảm và phẩm chất của bản thân. Ngoài ra, nhịp điệu chậm rãi, lời kể tỉ mỉ, thường xuyên lặp lại các từ ngữ miêu tả đặc điểm cố định của nhân vật như "Héc-to sáng loáng khiên đồng", "trang phục diễm lệ",... cũng là yếu tố góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

Đoạn trích "Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác" sẽ mãi in sâu trong lòng bạn đọc bởi những vẻ đẹp lí tưởng tốt đẹp của con người. Thông qua đây, người đọc có thể hình dung được về thời đại đã qua một cách chân thực, sống động.

Bài văn mẫu số 3

Sử thi là một thể loại văn học được rất nhiều độc giả yêu thích. Nhắc đến sử thi, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm đồ sộ "I-li-át" của nhà thơ người Hy Lạp cổ đại - Hô-me-rơ. Trong đó, đoạn trích "Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác" là một trích đoạn đặc sắc. Văn bản không chỉ khắc họa thành công hình tượng người anh hùng Héc-to mà còn dành lời ca ngợi lí tưởng cao đẹp của con người trong chiến tranh.

"Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác" được trích từ khúc ca VI của thiên sử thi, kể về sự kiện chủ soái quân đội thành Tơ-roa - Héc-to về thăm nhà và chia tay vợ con trước khi ra trận. Tuy nhiên, sau khi biết tin những chiến binh trong thành phải thoái lui vì khí thế quân A-kê-en quá áp đảo, vợ chàng - nàng Ăng-đrô-mác đã vội vã mang theo con nhỏ tới tòa tháp lớn. Héc-to biết tin liền nhanh chóng chạy khắp nơi tìm kiếm. Sau cùng, hai vợ chồng gặp nhau ở cổng Xkê. Tại đây, hai người đã bày tỏ nỗi niềm cùng những suy nghĩ của bản thân về mọi chuyện sắp tới. Thông qua đó, Héc-to trực tiếp bộc lộ lí tưởng lớn lao ở bản thân. Đây cũng chính là chủ đề mà tác giả muốn hướng tới: ca ngợi vẻ đẹp lí tưởng của con người trong chiến tranh.

Đầu tiên, vẻ đẹp lí tưởng ấy được thể hiện chân thực qua nhân vật Héc-to. Chàng - vị hoàng tử thành Tơ-roa luôn ý thức sâu sắc về bổn phận và trách nhiệm đối với cộng đồng. Đứng trước khí thế áp đảo của quân A-kê-en, chàng chưa từng nghĩ tới việc từ bỏ hay khuất phục. Sau khi nghe lời giãi bày từ vợ mình, lòng quyết tâm ở chàng cũng không hề lung lay. Ngược lại, chàng đã dùng lí lẽ để thuyết phục nàng Ăng-đrô-mác "Nhưng sẽ hổ thẹn xiết bao với những chiến binh và những người phụ nữ thành Tơ-roa xống áo thướt tha, nếu ta ở lại đây, như kẻ hèn nhát, đứng nhìn từ xa, tránh không xung trận". Có thể thấy, chàng luôn mang trong mình ý thức cao cả khi đối mặt với vấn đề quan trọng của tập thể. Dù biết khó khăn, nguy hiểm luôn cận kề, Héc-to vẫn can đảm đối diện. Ý chí quyết tâm, sục sôi chiến đấu luôn rực cháy trong chàng. Bên cạnh đó, vẻ đẹp lí tưởng còn được khắc họa qua tấm lòng nhiệt huyết ở Héc-to "bầu nhiệt huyết trong ta không cho phép ta làm như vậy: từ lâu ta đã học cách luôn ở tuyến đầu, can trường chiến đấu". Ngọn lửa nhiệt huyết như thôi thúc Héc-to hãy chiến đấu hết mình vì gia đình thân yêu và nhân dân thành Tơ-roa. Chàng hi vọng bản thân chiến đấu, giành vinh quang cho vua cha Pri-am và chính mình. Từ đây, vẻ đẹp lí tưởng của con người đã được nâng tầm cao hơn. Người anh hùng cộng đồng đã biết đặt danh dự, lợi ích tập thể lên trên tình cảm cá nhân riêng tư. Là một chủ soái quân đội, Héc-to luôn có ý thức trong việc bảo vệ nhân dân, đất nước. Bởi vậy, chàng vô cùng sáng suốt và tỉnh táo khi đứng trước lựa chọn gia đình êm ấm và vận mệnh cộng đồng. Chàng không để ham muốn hạnh phúc, ích kỉ cá nhân vượt lên lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Có thể nói, nhận thức đúng đắn, hành động dứt khoát cùng ý chí quyết tâm, lòng can trường đã tô đậm vẻ đẹp lí tưởng ở người anh hùng trong hoàn cảnh chiến tranh.

Bên cạnh đó, thông qua nhân vật Ăng-đrô-mác, tác giả Hô-me-rơ cũng phác họa một vài nét về vẻ đẹp lí tưởng ở con người. Là vợ của hoàng tử Héc-to, nàng luôn có ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận với thành Tơ-roa. Mong muốn cuộc sống cộng đồng sớm trở lại bình thường, nàng thường cùng các vị phu nhân đi dâng lễ, cầu xin nữ thần rủ lòng thương xót mà nguôi cơn giận. Sau khi nghe chồng mình khuyên nhủ, nàng đã mạnh mẽ buông tay, tiễn chồng ra chiến trận dù tận sâu nỗi lòng còn ngổn ngang lo sợ "Ăng-đrô-mác bước về nhà, hàng lệ tuôn rơi, chốc chốc lại ngoái nhìn theo hình bóng phu quân yêu quý".

Như vậy, cả hai nhân vật Héc-to và Ăng-đrô-mác đều sáng ngời vẻ đẹp lí tưởng cao cả. Một người mang trong mình lòng dũng cảm cùng khát vọng lớn lao, xứng đáng với vị trí thủ lĩnh quân đội. Một người là hậu phương vững chắc, là điểm tựa để người chồng an tâm chiến đấu nơi chiến trận. Cả hai đã biết hi sinh hạnh phúc cá nhân, gia đình nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng động.

Để làm nổi bật chủ đề đoạn trích, Hô-me-rơ đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo. Ông đã khắc họa thành công nhân vật thông qua những chi tiết về hành động, lời nói. Từ đây, mỗi nhân vật hiện lên thật rõ nét với các phẩm chất, tính cách tốt đẹp. Đồng thời, cốt truyện hấp dẫn cũng góp phần rất lớn trong việc bộc lộ tâm tư, tình cảm ở nhân vật. Bên cạnh đó, nhịp điệu chậm rãi, lời kể tỉ mỉ, lặp đi lặp lại các cụm từ miêu tả đặc điểm cố định của nhân vật như "Héc-to sáng loáng khiên đồng", "mũ trụ sáng lóa",... cũng giúp người đọc dễ dàng theo dõi toàn bộ nội dung câu chuyện.

Qua đoạn trích "Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác", Hô-me-rơ đã khéo léo đặt ra những vấn đề nhân sinh ý nghĩa. Cảm ơn tác giả đã mang đến một tác phẩm đặc sắc, giàu giá trị như vậy. Mong rằng, mỗi người chúng ta sẽ biết tiếp thu, lưu giữ những thông điệp tốt đẹp được gửi gắm trong tác phẩm.

Viết bài văn báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tốt nhất

Bài văn mẫu số 1

Một trong những dân tộc của Việt Nam có nền văn hóa đặc sắc tiêu biểu, có nét đặc trưng riêng biệt ấn tượng nhất phải kể đến dân tộc Tày. Dân tộc Tày đã đóng góp nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cùng nền ẩm thực đa dạng, hấp dẫn, làm văn hóa, nét đẹp chung của các dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng.

Dân tộc Tày hay còn được gọi là dân tộc Thổ, có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Hiện nay, tổng số người dân tộc Tày khoảng 1.845.492 người (Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/2019).

Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Do cư trú rộng khắp nên đời sống văn hoá, tinh thần khá phong phú, đa dạng, có sự giống và khác nhau đôi chút giữa các vùng do có nét riêng biệt mang tính bản địa, trong quá trình giao tiếp, văn hoá với các dân tộc khác có sự giao thoa, cộng sinh càng làm tăng thêm vẻ đẹp phong phú, đa dạng từ bao đời nay.

Có thể kể đến như:

1. Phong tục tập quán

Phong tục tập quán là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự đặc sắc cũng như độc đáo cho văn hóa dân tộc Tày. Đã từ bao đời, đồng bào dân tộc Tày đã cư trú tập trung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà, nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Điểm khác biệt và độc nhất của dân tộc tày đó chính là tục kết hôn trong cùng dòng họ. Các cặp nữ sẽ được quyền tự do tìm hiểu trước khi tiến tới hôn nhân nhưng có được phép kết hôn hay không là tùy theo theo quyết định của hai gia đình.

Theo phong tục truyền thống, hôn lễ sẽ được tiến hành qua các nghi thức như lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu. Bên cạnh đó, dân tộc Tày còn có những phong tục tập quán khác như lễ tảo mộ, tang lễ.

2. Ẩm thực

Theo văn hóa dân tộc Tày, truyền thống làm ruộng nước, thâm canh, áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng đã trở nên quen thuộc và là một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người Tày.

Nhờ sự gắn bó với cuộc sống thiên nhiên, vì vậy nguồn lương thực, thực phẩm chủ yếu của người Tày thường là những sản phẩm thu được từ hoạt động sản xuất ở vùng có rừng, sông, suối, đồi núi bao quanh như lúa, ngô, khoai, sắn, các loại rau và quả lê, táo, mận, quýt, hồng. Bên cạnh đó, các món ăn trong bữa cơm gia đình của đồng Tày rất phong phú và đa dạng.

Người Tày ưa chuộng những món ăn có vị chua như món thịt trâu xào măng chua, thịt lợn chua, cá ruộng ướp chua, canh cá lá chua và các loại quả có vị chua như khế, sấu, trám, tai chua đều được họ sử dụng trong các món ăn.

3. Trang phục

Khi nhắc đến những nét đặc sắc và ấn tượng của văn hóa dân tộc Tày thì không thể nào bỏ qua yếu tố về trang phục. Nếu như những bộ trang phục của người Mường được thiết kế cầu kỳ với nhiều họa tiết được thêu dệt tỉ mỉ thì trang phục của người Tày lại có vẻ giản đơn hơn.

Tuy vậy nhưng những bộ y phục của đồng bào dân tộc này luôn tạo ra nét riêng biệt và mang lại cho người mặc vẻ đẹp thuần khiết, giản dị. Nhìn chung trang phục cổ truyền của người Tày thường được làm từ vải sợi bông tự dệt, được nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí cầu kỳ. Người dân tộc sẽ đeo phụ kiện để trang trí là các đồ trang sức làm từ bạc và đồng như khuyên tai, kiềng, lắc tay, xà tích.

Ngoài ra còn có thắt lưng, giày vải có quai, khăn vấn và khăn mỏ quạ màu chàm đồng nhất. Trang phục của người dân tộc Tày có thể được coi là đơn nhất trong những bộ trang phục của 54 thành phần dân tộc khác nhau của Việt Nam, tuy thế nó lại chứa đựng những ý nghĩa tốt đẹp và có giá trị văn hóa.

Người Tày luôn có một sự tự hào to lớn về những nét văn hóa truyền thống phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, kết tinh nên những giá trị nhân văn cao đẹp. Qua bản báo cáo sơ lược văn hóa truyền thống dân tộc Tày, mong rằng cộng đồng sẽ cùng chắt lọc các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, có kế hoạch bảo tồn và sinh hoạt ở cộng đồng dân tộc Tày tại các thôn bản, góp phần xây dựng văn hóa lành mạnh, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu… phát huy vai trò chủ động của nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của dân tộc mình trong mỗi cá nhân, mỗi gia đình, không để giá trị văn hóa dân tộc bị biến dạng, bị mai một.

Bài văn mẫu số 2

1. Giới thiệu

Thơ Đường luật là một thể loại thơ phổ biến trong văn học các nước khu vực văn hóa Đông Á thời trung đại  (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam). Thơ Đường luật chú trọng đối với nghệ thuật đối khá đa dạng.

2.  Nghiên cứu

Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật  là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá đài từng có vị trí gần như là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Chưa đủ căn cứ để xác đinh thơ Đường luật vào Việt Nam năm nào, nhưng nếu thời điểm ra đời văn học viết Việt Nam được tính ít nhất từ thế kỷ X, thì đến nay thơ đường luật đã tồn tại ở Việt Nam ngót mười thế kỷ. Ngót mười thế kỷ, một thể thơ ngoại nhập đã được người Việt Nam sử đụng để sáng tạo biết bao giá trị. Không ai quên, với Đường luật, Nguyễn Trãi đã tạo nên một "niềm ưu ái" đầy tâm huyết. Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo nên một phong cách triết gia trầm tĩnh, nhuần nhị. Hồ Xuân Hương để lại một phong cách trữ tình trào phúng "thi trung hữu quỷ". Bà Huyện Thanh Quan, lại xứng đáng với một phong cách Đường thi mẫu mực....

3. Các bài thơ đường luật

- Các bài thơ đường luật đã học: Bánh trôi nước, Qua đèo Ngang, Bạn đến chơi nhà, Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, Đập đá ở Côn Lôn,...

- Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.

Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.

Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:

“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”

Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.

Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta"

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có

Bác đến chơi đây ta với ta”

Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.

Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.

Bài văn mẫu số 3

Trong thơ ca, hình ảnh, hình tượng thơ luôn đóng một vai trò quan trọng. Có những nhà thơ với biệt tài sử dụng hình ảnh thơ đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc.Và các tác giả dân gian là một trong số đó. Hình ảnh con cò là một trong những hình ảnh nổi bật của thơ ca, đặc biệt là ca dao xưa. Con còkhi là biểu tượng của người phụ nữ hết lòng vì gia đình khi lại là hình tượng cho những người nông dân chân lấm tay bùn, cần cù, một nắng hai sương. Đó cũng là lí do mà ta có thể nói rằng chính hình ảnh này được gợi ra từ những câu ca dao đến với tâm hồn tuổi ấu thơ một cách vô thức.

Con cò bay lả, bay la...Con cò bay bổng, bay cao...Những câu ca dao về hình ảnh con cò đã in đậm trong | tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Đây được coi như một hình ảnh tiêu biểu của ca dao xưa và là một | hình tượng đẹp. Nhắc đến hình ảnh con cò, người ta thường nhắc đến hình ảnh người nông dân. Nó cũng gợi cho ta sự liên tưởng đến hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam quanh năm chịu thương chịu khó, tần tảo lo cho gia đình. Hình ảnh con cò trong những câu hát ru tạo nên niềm cảm hứng sáng tạo bất tận cho các | tác giả văn học cũng như nhạc họa. Hình ảnh người bà, người mẹ, người chị ân cần, chu đáo, chăm sóc ta trong từng giấc ngủ đã in đậm trong tuổi thơ mỗi con người chúng ta. Từ khi còn thơ bé, nằm trong nôi, ta đã được lắng nghe những lời hát ru ngọt ngào của bà, của mẹ:

"Cái cò là cái cò con

Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà”

Hay:

“Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay"

Những bài ca dao mượn hình ảnh con cò để nói về thân phận người phụ nữ, người nông dân xưa. Những lời hát ru đầy cảm xúc đem lại cho ta những rung cảm xót xa:

“Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”

Hay như một bài ca dao vô cùng gần gũi với tuổi thơ của nhiều người:

"Con Cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”

Bài ca dao mang âm điệu mộc mạc, giản đơn mà vô cùng ý nghĩa để thể hiện sự tần tảo, đảm đang của người phụ nữ Việt. Những khó khăn, gian khổ, thậm chí là những thử thách tượng trưng cho những bước đường gian khổ mà người con phải đi qua.Thế nhưng người mẹ luôn luôn bên cạnh đồng hành cùng con trên những chặng đường, luôn bảo vệ và che chở cho con. Tình yêu thương của người mẹ dành cho con được gợi nhớ từ hình ảnh cò mẹ che chở, bao bọc cho cò con. Có lẽ trong cuộc đời của mỗi người con đều mang theo những lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Đó là những khoảnh khắc, kỉ niệm đáng nhớ trong cuộc đời chúng ta. Những lời ru không chỉ đưa ta vào giấc ngủ một cách trọn vẹn, an yên, nhẹ nhàng mà những lời ru đầy ý nghĩa ấy còn theo ta đi suốt cuộc đời. Mỗi bài hát ru như một thông điệp, như một ý nghĩa lớn lao muốn truyền tải đến tất cả những đứa con trong cuộc đời. Từ khi con còn vô thức, khi còn ấu thơ, chưa Có nhận thức rõ ràng đến khi con lớn dần lên, trưởng thành và đến khi mất đi, hình ảnh con Cò với những lời ru chan chứa yêu thương vẫn còn đọng lại trong kí ức. Đó cũng là sự biểu tượng của tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt, cao cả.

Không chỉ trong ca dao, hình ảnh con cò còn xuất hiện trong các sáng tác thơ ca của rất nhiều tác giả đương đại. Tú Xương với những câu thơ trong bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện rõ tình cảm trân trọng của mình với người vợ tảo tần, chịu khó, giàu đức hi sinh:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo seo mặt nước buổi đò đông”

Hay những câu thơ trong bài thơ “Con cò” đầy ý nghĩa của nhà thơ Chế Lan Viên:

"...Một con cò thôi

Con Cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh qua nôi..."

“Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò cánh vạc

Cho cả sắc trời

Đến hát Quanh nôi...”

Cho dù con còn bé hay đã lớn, có những cảm nhận ra sao thì trái tim con, tâm hồn con vẫn luôn đong đầy tình yêu thương của mẹ. Những câu hát ru gợi ra những xúc cảm về hình ảnh một buổi trưa hèoi ả, con nằm trong vòng tay của bà, của mẹ lắng nghe những lời hát ru và dần chìm vào trong giấc ngủ say sưa. Tôi tin chắc đó không chỉ là hình ảnh sâu đậm trong tâm trí của riêng tôi, mà còn là của bạn, của mỗi chúng ta. Hãy nhớ về quá khứ tươi đẹp với những cảm xúc dung dị nhất để thấy cuộc đời thêm tươi đẹp và ý nghĩa hơn.

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!