Bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ không phải là một bài phát biểu cảm nhận đơn thuần. Kiểu bài viết này đòi hỏi sự chặt chẽ trong lập luận, sự sáng rõ, sắc nét của luận điểm và sự mạch lạc trong tổ chức bài viết. Bởi vậy, người viết cần nắm chắc các tri thức về đặc trưng thi ca đã được giới thiệu trong bài học và được làm rõ qua các tiết đọc văn bản để có những phân tích, đánh giá thuyết phục. Mặt khác, kiểu bài này cũng vẫn khuyến khích người viết thể hiện những rung cảm và tưởng tượng của mình khi chiếm lĩnh bài thơ.
Hướng dẫn Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ
* Yêu cầu đối với văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ:
- Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ được chọn (tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu văn học gắn với bài thơ, lý do lựa chọn bài thơ để phân tích, đánh giá).
- Chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ (từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh, ...)
- Đánh giá giá trị của bài thơ về phương diện nghệ thuật cũng như ý nghĩa nhân sinh.
* Phân tích bài tóm tắt tham khảo
Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)
- Luận điểm 1: Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu bài thơ
- Luận điểm 2: Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ
- Luận điểm 3: Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mĩ mà các phép tu từ này gợi ra
- Luận điểm 4: Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ
- Luận điểm 5: Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ.
* Thực hành viết theo các bước
1. Chuẩn bị viết
- Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó.
+ Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử
- Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ bạn sẽ phân tích, đánh giá
2. Tìm ý, lập dàn ý
a. Tìm ý
- Đọc lại bài thơ đã lựa chọn. Có thể đọc thầm hoặc đọc thành tiếng để cảm nhận đầy đủ hơn về âm điệu, nhịp điệu của nó. Chú ý những cách diễn đạt lạ, có thể lần đầu mình bắt gặp và những hình ảnh gây ấn tượng. Sau khi đọc, hãy suy nghĩ vì sao bài thơ lại có những cách tổ chức và kết hợp ngôn từ đặc biệt như vậy?
+ Nhan đề bài thơ “Mùa xuân chín”
+ Nhịp điệu nhanh, thể hiện âm điệu thiết tha, da diết
+ Những cách kết hợp từ mới lạ: khói mơ, sột soạt gió, sóng cỏ, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, mùa xuân chín,...
- Thử liên kết âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ và chú ý xem mạch liên kết này có thể đem đến cho bạn sự bất ngờ nào trong cảm xúc, liên tưởng và nhận thức.
+ Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân. - Khi phân tích nội dung nghệ thuật của bài thơ, chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.
- Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.
+ Điểm độc đáo của bài thơ là những hình ảnh tượng trưng siêu thực đầy huyền ảo
- Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó.
b. Lập dàn ý
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,....) và nêu các vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
- Thân bài
+ Mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao...)
+ Sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,...)
+ Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác)
- Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận.
3. Viết
Viết bài theo dàn ý đã lập.
4. Chỉnh sửa, hoàn thiện
- Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra
- Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm
- Chỉnh sửa các lỗi về chính tả và ngữ pháp
Dàn ý chi tiết viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ
Dàn ý chi tiết số 1
I – Mở bài
- Giới thiệu Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, theo đuổi chủ nghĩa tượng trưng siêu thực
- “Mùa xuân chín” lag một sáng tác của Hàn Mạc Từ trích trong tập “Đau thương” (1938)
II – Thân bài
1. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình
- Mạch cảm xúc bài thơ đi từ bức tranh ngoại cảnh đến bức tranh tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân.
- Nhan đề “mùa xuân chín”
2. Cảnh xuân
- Nhà thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ, tươi đẹp, tràn đầy sức sống
+ Dấu hiệu báo xuân sang: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh, tà áo biếc, giàn thiên lý
+ Những kết hợp từ độc đáo: nắng ửng, khói mơ tan, sóng cỏ, đám xuân xanh
+ Nghệ thuật đảo ngữ “sột soạt gió trêu tà áo biếc”
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang”, “tiếng ca vắt vẻo”
=> Khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả mà đằm thắm yêu thương.
3. Tình xuân
- Nhà thơ thể hiện nỗi nhớ quê, niềm khát khao giao cảm với cuộc đời
+ Niềm vui của con người khi xuân đến: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
+ Tình yêu đời, khao khát giao hoà với cuộc đời: “Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây”
+ Nỗi nhớ làng quê da diết: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Lòng trí bâng khuâng sự nhớ làng”.
4. Nét hấp dẫn, độc đáo riêng của bài thơ
- So sánh “Mùa xuân chín” với thơ Đường, từ đó làm rõ tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ.
III – Kết bài
- Khẳng định giá trị thẩm mĩ, tư tưởng của bài thơ
Dàn ý chi tiết số 2
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).
2. Thân bài
Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.
- Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
+ Hình ảnh “tiếng suối”: Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối.
+ Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.
+ Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa
=> Hình ảnh ánh trăng làm bừng sáng thiên nhiên nơi chiến khi Việt Bắc. Một không gian thiên nhiên huyền ảo vừa có ánh sáng, vừa có âm thanh.
- Câu thơ thứ 3: Khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình.
Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ
+ Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.
+ Biện pháp tu từ: So sánh.
- Câu thơ thứ 4: Bài thơ kết thúc bằng một lời giải thích ngắn gọn, thẳng thắn nhưng lại rất đáng quý và trân trọng.
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
+ Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”
+ Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. à chân thực, giản dị.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của chủ đề.
Dàn ý chi tiết số 3
1. Mở bài:
– Giới thiệu sơ lược về tác giả: tên tuổi, bút danh, vị trí trong nền văn học, chủ đề sáng tác, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả đối với phong trào văn học, giai đoạn văn học và nền văn học dân tộc.
– Giới thiệu tổng quát về bài thơ: hoàn cảnh xuất xứ, đại ý, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Dẫn vào đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: trích lại bài thơ (nếu ngắn) còn khổ thơ thì phải ghi lại tất cả.
2. Thân bài:
– Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.
– Giới thiệu vấn đề nghị luận và phương hướng nghị luận.
– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Lưu ý: Nên phân tích từ nghệ thuật đến nội dung, khi phân tích phải dựa vào từ ngữ có trong bài thơ, hoàn cảnh ra đời, phong cách sáng tác của tác giả để tránh suy diễn miên man, không chính xác.
Cảm nhận 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
* Cụ thể:
– Phân tích khổ thơ thứ nhất:
+ Nêu nội dung chính của khổ thơ thứ nhất:
(Trích thơ…)
+ Áp dụng các thủ pháp phân tích thơ để phân tích những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp nghệ thuật tu từ, nhịp điệu, v.v… trong từng câu thơ; giải mã những từ ngữ, hình ảnh đó có ý nghĩa gì, nó hay, đặc sắc ở chỗ nào?
+ Liên hệ, so sánh với những bài thơ cùng chủ dề.
+ Đoạn dẫn chuyển ý sang khổ thứ hai.
– Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Cách làm bốn bước tương tự khổ thứ nhất.
+ Rồi cứ tiếp tục như thế đến hết bài.
(Lưu ý: đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu hai khổ thơ cùng một ý nghĩa)
– Nhận xét đánh giá bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về nghệ thuật biểu hiện đặc sắc (Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).
3. Kết bài:
+ Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Viết bài văn viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ Mùa xuân chín
Bài văn mẫu số 1
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,...) thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Bài văn mẫu số 2
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng” Mùa xuân chín”, ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tò mò muốn khám phá, thôi thúc ta đi sâu vào nội dung tác phẩm để khám phá nét “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tanĐôi mái nhà tranh lấm tấm vàngSột soạt gió trêu tà áo biếcTrên giàn thiên lý bóng xuân sang”
Bức tranh mùa xuân chốn thôn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió khẽ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng” sột soạt”, tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như hòa quyện lấy nhau:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trờiBao cô thôn nữ hát trên đồi;”
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi “gợn tới trời” như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấyCó kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
Niềm vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cô thôn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,Hổn hển như lời của nước mây,Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,Nghe ra ý vị và thơ ngây…”
Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch “tiếng ca vắt vẻo” trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo nhịp thời gian, “hổn hển” “thì thầm” với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chínLòng trí bâng khuâng sực nhớ làngChị ấy năm nay còn gánh thócDọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi xuân chín, xuân đã không còn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thôn quê: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. m “ang” cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi lòng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:
“Chị ấy năm nay còn gánh thócDọc bờ sông trắng nắng chang chang”
Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lòng bao cô gái ngân nga lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xuân chín, xa rời xuân xanh năm nào, “chị ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp rạng ngời.
Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế. Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xuân chín” vẹn tròn, đầy đặn, thiết tha.
Bài văn mẫu số 3
Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên từng nói rằng: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình”. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài thơ hay và ý nghĩa. Hồn thơ Hàn Mặc Tử được coi là hồn thơ “điên” cất lên từ số phận bất hạnh với những ám ảnh về “trăng” và “máu”. Nhưng trong tác phẩm “Mùa xuân chín”, thi nhân đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống. Từ đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của ông.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái “chín” kết hợp với danh từ “mùa xuân” gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.
Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình tượng thiên nhiên và hình tượng con người trong mùa xuân. Vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống được khắc họa thông qua một loạt các hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm: “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xuân sang”, “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Hình ảnh “làn nắng ửng” cho ta hình dung về màu vàng nhạt của nắng. Đó là màu của nắng sớm mới lên đầy trong trẻo chứ không phải cái nắng gay gắt chói chang của ngày hè hay cái nắng vàng hanh của mùa đông. Trong khi đó “khói mơ tan” lại đem đến hai cách hiểu: khói phát ra từ những căn bếp trong buổi sáng sớm hoặc cũng có thể là làn sương khói tinh mơ. “Làn nắng ửng” kết hợp với “khói mơ tan” tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến để nhường chỗ cho nắng mới lên. Đôi mái nhà tranh được nắng ửng nhuộm vàng để lại ấn tượng về một vùng quê thanh vắng, yên bình trong buổi sớm ban mai. Câu thơ “sột soạt gió trêu tà áo biếc” với biện pháp đảo ngữ và từ láy “sột soạt” vừa diễn tả được âm thanh vừa nhấn mạnh được sự trêu đùa, tình tứ của gió khiến tà áo biếc nhẹ bay. Mùa xuân của tự nhiên đã được hữu hình hóa thông qua biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ “Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”. Tác giả đã ngăn cách câu thơ bằng dấu chấm nhằm tạo nhịp điệu thơ cũng như nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Sự thay đổi nhịp thơ từ 2/2/3 sang 4/3 một cách linh hoạt và cách gieo vần “vàng” – “sang”, “trời” – “chơi” đã mở ra không gian mùa xuân bao la rộng lớn. Trong không gian ấy còn xuất hiện hình ảnh “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ không chỉ miêu tả được sắc xanh, mật độ của cỏ mà còn gợi ra được chuyển động của cỏ theo làn gió khiến mùa xuân ngập tràn khắp không gian. Ngôn từ của bài thơ đã gợi lên khung cảnh mùa xuân đang vào giai đoạn rực rỡ và tràn đầy sức sống nhất.
Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, nổi bật hình ảnh con người đang độ tuổi xuân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi: “bao cô thôn nữ”, “đám xuân xanh”, “tiếng ca vắt vẻo”, “ai ngồi dưới trúc”, “khách xa”, “chị ấy” khiến chúng ta hình dung về sự xuất hiện của con người. Hình ảnh “bao cô thôn nữ hát trên đồi” vừa diễn tả được đối tượng vừa miêu tả được hành động và nơi chốn cụ thể. Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” bỗng chốc trở thành lời nói trực tiếp thông qua dấu gạch ngang, kết hợp với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3, ý thơ bộc lộ sự tiếc nuối tuổi xuân của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. “Tiếng ca” được nhân hóa thông qua từ láy “vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thĩ” tạo ra sự trầm bổng khác nhau, lúc thì nhỏ nhẹ, tha thiết, khi thì dồn dập, gấp gáp. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng hát trong trẻo.
Trái ngược với sự tươi vui, rộn rã của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, khổ thơ cuối đã có sự chùng xuống về mặt cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được khắc họa thông qua hình ảnh “khách xa”. “Khách xa” ở đây có thể hiểu là khách từ phương xa đến làng hoặc cũng có thể là nhà thơ ẩn mình dưới vai trò của một vị khách để diễn tả hoàn cảnh của bản thân. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng, trí nhớ về quê hương. Từ láy “bâng khuâng” gợi ra cảm giác buồn man mác, lửng lơ, vô định kết hợp với từ “sực” càng cho ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc. Tại chính thời điểm đó, nỗi nhớ làng quê ngập tràn, dâng trào trong tâm tưởng của thi nhân. Tương tự câu trên, câu thơ ” – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 và dấu gạch ngang đầu câu khiến câu thơ trở thành lời nói bộc lộ trực tiếp cảm xúc. Đây là câu hỏi của “khách xa” hay của chính tác giả đang tự hỏi chính mình “liệu năm nay chị ấy có còn gánh thóc dọc bờ sông hay không?”. Câu thơ vừa diễn tả được hoạt động “gánh thóc” của đối tượng vừa miêu tả được không gian mùa hè với cái “nắng chang chang”. Cách gieo vần “làng” – “chang chang” đã gợi ra sự vang vọng trong cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Cùng viết về đề tài mùa xuân, Nguyễn Bính thể hiện bức tranh tươi tắn, hồn hậu “chân quê để bày tỏ tình cảm với người con gái thì “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử lại diễn tả một mùa xuân tươi tắn, tràn đầy nhằm bộc lộ tiếc nuối và mặc cảm thân phận trước cuộc sống. Cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều làm nên dấu ấn của “Mùa xuân chín” chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.
Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân thông qua biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hệ thống từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng cách ngắt nhịp, gieo vần phá cách. “Mùa xuân chín” bộc lộ khát khao giao cảm với đời, với người của một hồn thơ “điên” đang mang trọng bệnh nhưng vẫn luôn hướng về cuộc sống.
Bài văn mẫu số 4
Hàn Mặc Tử là một cây bút tiêu biểu cho “phong trào Thơ mới” Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét về ông là “Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng”. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như: tập thơ “Gái quê”, “Thơ Điên”, “Chơi giữa mùa trăng”,… Đặc biệt, tác phẩm “Mùa xuân chín” đã đem lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, con người và nỗi khát khao giao cảm với đời.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khiến chúng ta hình dung ra khung cảnh mùa xuân rực rỡ, căng tràn sức sống. Cách kết hợp động từ chỉ trạng thái “chín” với danh từ “mùa xuân” cho ta cảm nhận không gian tràn đầy sức sống. Nhan đề bài thơ khơi gợi về sự mềm mại, đằm thắm của mùa xuân. Mạch cảm xúc của tác phẩm đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Trước khung cảnh mùa xuân rực rỡ, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương da diết. Giọng điệu thơ có sự chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, khi thì tha thiết, vui tươi, khi thì ngưng đọng, suy tư.
Mở đầu văn bản là bức tranh làng quê thanh bình, yên tĩnh. Thiên nhiên được gợi lên dưới ngòi bút tài hoa của tác giả “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xuân sang”. Hình ảnh “làn nắng ửng” khiến ta tưởng tượng đến màu vàng nhạt của nắng buổi bình minh. Còn hình ảnh “khói mơ tan” lại đem đến hai cách hiểu: khói bếp phát ra từ những căn nhà trong buổi sớm hoặc có thể đó chính là làn sương khói tinh mơ của ngày mới. “Làn nắng ửng” kết hợp với “khói mơ tan” tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến khi mặt trời lên. Mùa xuân len lỏi qua mái nhà và giàn thiên lí. Câu thơ “Sột soạt gió trêu tà áo biếc” với biện pháp đảo ngữ và từ láy “sột soạt” góp phần diễn tả âm thanh và sự tình tứ, trêu đùa của gió với tà áo biếc nhẹ bay. Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được nhà thơ sử dụng trong câu “Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang” khiến mùa xuân được hữu hình hóa. Câu thơ được ngăn cách bởi dấu chấm khiến nhịp thơ thay đổi từ 2/2/3 sang 4/3 nhằm nhấn mạnh dấu ấn của mùa xuân. Tác giả gieo vần chân một cách tinh tế “vàng”, “sang”, “trời”, “chơi” khiến người đọc tưởng tượng ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân sang khiến cỏ cây, đất trời và lòng người như hòa vào nhau: “Sóng cỏ xanh gợn tới trời”
Câu thơ không chỉ diễn tả mật độ của cỏ mà còn gợi ra sự chuyển động của gió. Trên nền bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy là sự xuất hiện của con người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi– Ngày mai trong đám xuân xanh ấyCó kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
Và:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núiHổn hển như lời của nước mâyThầm thĩ với ai ngồi dưới trúc.Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên là con người đang trong độ “tuổi xuân”. Hình ảnh “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” thể hiện sự hòa quyện của con người trước thiên nhiên. Mùa xuân ấm áp, căng tràn sức sống khiến con người cảm thấy xuyến xao, hạnh phúc. Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” giống như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người chứng kiến khung cảnh “đám xuân xanh”, hoặc cũng có thể là nuối tiếc của vị “khách xa”. Tiếng ca của các cô gái được khắc họa qua từ láy “hổn hển”, “thầm thĩ” khiến người đọc cảm nhận được sự trầm bổng trong tiếng hát, lúc thì thiết tha, khi thì gấp gáp, dồn dập. Tiếng hát như nhịp chuyển động của thời gian đầy ý vị.
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chínLòng trí bâng khuâng sực nhớ làng– Chị ấy, năm nay còn gánh thócDọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự chùng xuống trong tâm trạng nhân vật trữ tình. “Khách xa” có thể hiểu là khách từ phương xa đến thăm làng lúc “mùa xuân chín”, hoặc “khách xa” ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này đúng với hoàn cảnh của Hàn Mặc Tử, ông cho rằng bản thân giờ chỉ là một người “khách xa” với quê hương. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ ” – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình. Người khách xa tự hỏi lòng mình rằng liệu năm nay chị ấy còn gánh thóc bên bờ sông không. Câu thơ vừa diễn tả hành động gánh thóc, vừa gợi ra không gian mùa hè “nắng chang chang”.
Cách gieo vần chân “làng” – “chang” khiến dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình như được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khát khao giao cảm mãnh liệt với đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Cùng viết về đề tài mùa xuân, nhưng tác phẩm của Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử lại có những nét độc đáo riêng. Nếu Nguyễn Bính khắc họa bức tranh mùa xuân tươi tắn, hồn hậu để bày tỏ tình cảm với người con gái thì Hàn Mặc Tử lại diễn tả mùa xuân tươi đẹp nhưng tràn đầy sự nuối tiếc. Cả hai nhà thơ đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với những vùng quê. Điều nổi bật của “Mùa xuân chín” là cách sử dụng ngôn từ sinh động khiến người đọc hình dung mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.
Bài thơ “Mùa xuân chín” đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời của một con người xa quê và đang bị bệnh tật giày vò.
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ Thu hứng
Bài văn mẫu số 1
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là “câu đề” với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai có nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.
Đến hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng “yêu nước thương đời” lại càng thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Bài văn mẫu số 2
Đỗ Phủ là nhà thơ tiêu biểu của nền Thi Đường Trung hoa và được người đời sau tôn vinh làm Thi thánh (Thánh thơ). Cuộc đời Đỗ Phủ sống trong thời kì loạn An - Sử với những biến cố dữ dội của thời đại. Ông phải chịu cảnh li tán, ốm đau, bệnh tật và khốn khó tại Quỳ Châu. Trong những tháng ngày phiêu bạt nơi đất khách quê người, ông đã sáng tác bài thơ "Thu hứng" (bài 1) nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề. Tác phẩm khắc họa bức tranh thiên nhiên, con người trong mùa thu từ đó bày tỏ nỗi nhớ quê hương của tác giả Đỗ Phủ.
Ngay từ nhan đề đã gợi cho người đọc tâm trạng của thi nhân trước cảnh mùa thu. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình vận động từ cảm xúc trước bức tranh thiên nhiên mùa thu đến cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người.
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, tiêu điều. Khung cảnh mùa thu ở trên cao được khắc họa qua hai câu thơ: "Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,/ Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm." Từ "trắng xóa" đã diễn tả được độ dày của màn sương, gợi cho ta cảm giác sương dày đặc, giăng kín lối khiến cho rừng phong trở nên tiêu điều, xác xơ, hoang vắng. Nhà thơ nhắc đến hai địa danh là núi Vu và kẽm Vu thuộc tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc. Đây là nơi có địa hình hiểm trở với những vách núi dựng đứng. Về mùa thu, nơi đây mù mịt u ám lại kết hợp với cụm từ "hơi thu hiu hắt" càng nhấn mạnh không khí lạnh lẽo đang bao trùm khắp không gian.
Ở hai câu tiếp theo, tầm mắt của nhà thơ đã hạ xuống thấp với hình ảnh "sóng tung vọt trùm bầu trời" và "gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u". Động từ "tung vọt", "trùm" đều là những động từ mạnh diễn tả chuyển động nhanh, dữ dội của con sóng giữa lòng sông. Đồng thời, hình ảnh "gió mây sà xuống" khiến mặt đất âm u càng làm cho không gian trở nên tối tăm, lạnh lẽo, vô tình tạo cho người đọc những hình dung về địa thế hiểm trở của những cách núi khiến ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Sự kết hợp giữa cảnh tiêu điều, u ám của rừng phong với vẻ hùng vĩ của núi rừng hiểm trở đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu hiu hắt, rợn ngợp. Bên cạnh việc miêu tả sự vật, hiện tượng thông qua ngôn từ, nhà văn đặc biệt chú ý đến cách gieo vần. Bốn câu thơ nhưng có đến tận ba câu gieo chủ yếu vần bằng tạo nên cảm giác mênh mang trong tâm trạng của nhân vật trữ tình khiến âm điệu thơ có phần bi thương. Nhà thơ đã thể hiện nỗi buồn mênh mang của mình trước bức tranh thiên nhiên mùa thu.
Đến bốn câu cuối trong bài thơ, ta nhận thấy nhân vật trữ tình có sự vận động, biến chuyển cảm xúc trước cảnh vật và khung cảnh sinh hoạt của con người. Nỗi lòng của chủ thể trữ tình được bộc lộ thông qua những hình ảnh: "khóm cúc nở hoa hai lần", "con thuyền lẻ loi", "rộn ràng dao thước may áo rét", "tiếng chày nện vải càng dồn dập". Hình ảnh "khóm cúc nở hoa hai lần" dùng để chỉ thời gian tương ứng với hai năm xa nhà của tác giả. Nhà thơ không giấu nổi nỗi xúc động mà tuôn rơi nước mắt khi nhìn về khóm cúc. Danh từ "con thuyền" gợi ra sự trôi nổi, vô định kết hợp với từ láy "lẻ loi" càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, không bến đỗ trong tâm tưởng của chủ thể trữ tình. Hình ảnh con thuyền không chỉ giới hạn ở nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa biểu tượng dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Hai câu thơ: "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm" đã diễn tả nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của nhân vật trữ tình trước khung cảnh thiên nhiên mùa thu.
Đến hai câu cuối, bài thơ bắt đầu xuất hiện âm thanh náo nhiệt "rộn ràng dao thước" và "tiếng chày nện vải" của con người. Tuy nhiên, những từ láy "rộn ràng", "dồn dập" không khiến cho bài thơ trở nên tươi vui hay làm cho tâm trạng nhân vật trữ tình tốt hơn. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả càng trở nên mãnh liệt hơn. Như vậy, bốn câu thơ cuối của bài thơ đã diễn tả tâm trạng đau buồn, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương sâu sắc từ đó bày tỏ tình yêu quê hương của thi nhân. Bài thơ không chỉ là tâm trạng của riêng Đỗ Phủ mà nó còn đại diện cho biết bao người sống trong thời đại với nhiều biến cố.
Cũng nằm trong chùm tám bài thơ cùng nhan đề, "Thu hứng" (bài 2) miêu tả khung cảnh Phủ Quỳ, từ đó thể hiện niềm yêu nước một cách thầm kín. Mặc dù cùng viết về cảm xúc của con người trong thu nhưng điều khiến cho "Cảm xúc mùa thu" (bài 1) trở nên độc đáo và khác biệt so với bài 2 nằm ở hình ảnh thơ giàu sức gợi, chan chứa một nỗi u hoài, trầm lắng của nhà thơ khi phải rời xa quê hương, lưu lạc nơi đất khách quê người.
Bài thơ được triển khai với tứ thơ theo các mối quan hệ tương đồng, tả ít gợi nhiều. Ngôn từ cô đọng, hàm súc. Tác giả tuân thủ chặt chẽ về niêm, luật, cách gieo vần. Nhan đề, nội dung cảm xúc và hình ảnh nghệ thuật đều góp phần bộc lộ chủ đề của tác phẩm: thể hiện nỗi nhớ, tình yêu quê hương của tác giả trước bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong mùa thu.
"Cảm xúc mùa thu" bài 1 mang dấu ấn của một hồn thơ tinh tế. Nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của tác giả khi ông sống trong cảnh khốn khó, bệnh tật tại Quỳ Châu đã để lại nhiều xúc cảm, suy tư với người đọc. Tài năng và nhân cách cao đẹp của Đỗ Phủ đã giúp ông trở thành Thi Thánh trong lòng hậu thế.
Bài văn mẫu số 3
Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường. Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Hàng ngàn bài thơ của ông có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Bên cạnh đó, Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. “Thu hứng” là một trong những bài thơ đó.
Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được sáng tác vào năm 766, khi Đỗ Phủ đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Chính hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương của nhà thơ cũng chính là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng. Bài thơ vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu ở hai câu thơ đầu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Cảnh tượng vào mùa thu thật khiến cho tâm hồn con người xao xuyến mông lung có cái cảm giác trống trải trong tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên xao sát khiến cho tâm hồn còn người sầu lại càng sầu hơn. Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong: “Lác đác rừng phong hạt móc sa”. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nhắc đến Vu Sơn, Vu Giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.
Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Các tính từ “rợn”, “thẳm” đã diễn tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Dường như cảnh đời điêu linh đã thấp thoáng ẩn hiện đâu đó sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng?
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ. Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng biểu tượng cho mùa thu. Mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ, câu thơ nguyên văn chữ Hán: Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước. Theo bản dịch của Nguyễn Công Trứ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chứa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xa quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là Đỗ Phủ sống ở Quý Châu đã được hai năm. Hoa cúc đã khiến lòng thi nhân không khỏi ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.
Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm”. Câu thơ chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng. Chính vì vậy, Đỗ Phủ mới ngậm ngùi nhớ lại mùa thu ở chốn cũ và đồng thời mong ước có một con thuyền chở ước mơ ấy của nhà thơ. Đọc đến đây, người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động, và rạo rực trong lòng.
Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Chính âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải kia đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui. Tuy nhiên, thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn và tâm trạng rối ren đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Hơn thế nữa, tiếng chày đập vải như nhắc nhở mọi người rằng khí thu lạnh lẽo và mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Ở câu thơ thứ tư đã nêu lên bối cảnh lịch sử theo bao nỗi lo. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo lắng của người vợ còn đó. Trời đã tối, không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, ông cảm thấy không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.
Cảnh có thiên nhiên của mùa thu (khí, gió, sương) và đặc biệt là tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thơ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chỉ ôm ấp một hi vọng mong manh và giản dị là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiệnthực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.
“Cảm xúc mùa thu” là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Bài thơ dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ.Nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua bài Thu Hứng và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thơ Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Bài văn mẫu số 4
Đỗ Phủ được mệnh danh là Thi Thánh, một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, có giá trị, khoảng 1500 bài thơ. Cảm xúc mùa thu được trích từ chùm thơ “Thu hứng” gồm có tám bài. Cảm xúc mùa thu được đánh giá là bài thơ hay nhất, có nội dung bao quát bảy bài thơ còn lại. Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của tác giả.
Tác phẩm được sáng tác năm 766 trong thời điểm Trung Quốc đã chấm dứt loạn An Lộc Sơn. Loạn An Lộc Sơn đã gây ra hậu quả khủng khiếp. Triều đại nhà Đường rơi vào suy thoái. Cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ bùng nổ. Tình cảnh của nhân dân vô cùng khốn khổ, bản thân Đỗ Phủ cũng phải trải nghiệm sự khốn khổ, điêu linh đó. Khi ấy Đỗ Phủ đến vùng đất Tứ Xuyên, được sự giúp đỡ của một người bạn thân làm quan nhưng sau khi bạn thân mất, ông mất chỗ dựa. Đưa gia đình về nhưng đói khổ nên bị mắc lại ở Quỳ Châu hai năm trong tình cảnh nghèo túng, bệnh tật, bế tắc. Trong những năm này ông sáng tác nhiều, giọng thơ bi thiết, buồn thảm.
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Câu thơ đầu đã cho độc giả thấy ba hình ảnh đặc trưng nhất của mùa thu là: rừng phong, hạt móc, nghìn thu, ba hình ảnh này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau gợi cảm giác lạnh lẽo, thê lương. Sương móc vốn là loại sương đặc trưng của mùa thu Trung Quốc, loại sương gợi nên sự giá buốt, lạnh lẽo. Nhưng trong câu thơ dịch không truyền tải được tinh thần của nguyên tác: Sương móc rơi lác đác – lác đác là tính từ cho thấy sự thưa thớt của những hạt sương rơi. Tạo nên cảnh tượng mờ ảo, quyến rũ. Nguyên tác phải là Sương móc trắng xóa dày đặc, giăng mắc, bao phủ khắp không gian, cảnh vật. Màu trắng không gợi ra sự tinh khôi, thanh khiết mà gợi ra sự ảm đạm và hiu hắt, lạnh lẽo. Kết hợp với làn sương trắng xóa, hiu hắt là hình ảnh rừng phong, vốn rừng phong vào mùa thu có màu đỏ, gợi nên sự ấm nóng, rực rỡ. Nhưng với làn sương trắng xóa dày đặc, đã khiến cả rừng thu trở nên xơ xác, tiêu điều. Sang đến câu thơ thứ hai, khắc họa rõ nét hơn sự ảm đạm, hiu hắt của khung cảnh thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là những dãy núi chạy dài, không có một khoảng trống. Vùng núi cao ấy không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời nên rất tăm tối, ảm đạm. Kết hợp với làn sương dày đặc càng khiến không gian thêm ảm đạm, hiu hắt hơn. Ba hình hình kết hợp lại với nhau mang đến cho người đọc sự cảm nhận về bức tranh cảnh thu nơi đất khách: lạnh lẽo, tiêu điều, hiu hắt tăm tối.
Nếu ở hai câu đề, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều rộng thì ở hai câu thực, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thương phong vân tiếp địa âm. Câu thơ được tác giả sử dụng kết hợp biện pháp nghệ thuật đối và phóng đại: Sóng vọt lên tận lưng trời; Mây sà xuống giáp mặt đất. Hai sự vật thiên nhiên vận động trái chiều: vọt lên, sà xuống, các động từ đã nhấn mạnh hơn nữa vào sự vận động ngược chiều đó. Hai sự vật vận động ngược chiều, ép sát vào nhau, khiến không gian bị ken đặc lại, bị lấp kín bới cái mờ ảo, hoang vu của sông và mây. Bức tranh thu hiện lên hùng vĩ nhưng âm u, dữ dội, đầy ngột ngạt.
Bốn câu đầu mở ra không gian nhìn từ xa: rừng phong, sông núi, cửa ải,… bốn câu sau mạch thơ có sự vận động về gần, trước mắt tác giả là hình ảnh:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Với ý tứ sâu xa, bản dịch thơ đã không truyền tải được hết ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ thứ năm mang đến nhiều cách hiểu, khi chủ thể của hoạt động nước mắt tuôn rơi đều bị ẩn đi. Câu thơ có thể hiểu nước mắt tuôn rơi là của khóm cúc vì những cánh hoa nở ra đều mang hình giọt lệ, khóm cúc nở hoa cũng là khóm cúc đang tuôn rơi những giọt lệ. Nhưng cũng có thể hiểu chủ thể của nước mắt là thi nhân. Cứ mỗi lần nhìn khóm cúc nở hoa là một lần nhận ra thời gian chảy trôi, mà mình thì bị buộc ở đây mãi, càng chạnh lòng, lại thức dậy nỗi nhớ quê trong bất lực. Dù hiểu theo cách nào câu thơ chất chứa nỗi buồn đau của tác giả mỗi khi hoa cúc nở. Khóm cúc nở hoa đã hai lần nhấn mạnh vào con số, hai năm – khoảng thời gian gia đình tác giả lưu lạc và mắc lại ở mảnh đất Quỳ Châu. “Lưỡng khai” còn là con số ước lệ – số nhiều – gợi ra nỗi đau triền miên và dai dẳng. Không chỉ năm nay hoa cúc nở mới làm thức dậy nỗi đau mà nỗi đau ấy từ năm ngoái, cho thấy nỗi đau triền miên, dai dẳng, thường trực từ rất lâu. Nỗi đau trong bế tắc – nỗi đau thời thế, nỗi nhớ quê hương mà không thể nào có thể trở về quê hương.
Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả thể hiện rõ ràng hơn trong hình ảnh “cô chu” – hình ảnh con thuyền cô đơn, lẻ loi. Đồng thời gợi ra cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi, trôi nổi nơi đất khách của tác giả. Câu thơ trước hết là hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình nhà thơ về quê đã bị mắc lại ở Quỳ Châu. Đằng sau nghĩa thực là một hàm ý: gửi gắm nỗi nhớ quê buộc chặt trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách. Chữ “buộc” trở thành nhãn tự của câu thơ, vừa là sợi dây buộc con thuyền, vừa là sợi dây thắt lòng người.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong nỗi nhớ quê hương da diết ấy, cảnh rộn ràng tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập áo dồn dập càng cho thấy rõ hơn nỗi niềm của kẻ xa quê phải tha hương nơi đất khách quê người. Nhưng bên cạnh đó hình ảnh ấy còn cho thấy nỗi lo lắng vì đất nước vẫn chưa được yên bình.
Với ngôn từ hàm súc, cô đọng, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Đỗ Phủ đã tái hiện bức tranh thu xơ xác, tiêu điều, lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh ấy còn gửi gắm tâm trạng bài thơ: nỗi lo cho đất nước, nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho thân phận của chính mình.
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ tốt nhất
Bài văn mẫu số 1
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Đứng ở thành Quỳ Châu, nhìn ra phong cảnh bốn bề. Lúc ấy sương móc sa xuống, lá phong trong rừng đã thấy úa vàng, trên dãy núi Vu Sơn, bóng tối mịt, mù, đủ thấy khí hậu rét lắm. Ớ nẻo xa xa trong lòng sông, làn sóng cồn liền với chân trời. Trên ngọn núi, vài bóng mây lờ mờ tiếp với mặt đất. Thình lình nghĩ đến cảnh mình, tác giả sực nhớ mình đã lênh đênh đất khách đến hai năm trời, khóm cúc ở các nhà chắc đã hai lần nở hoa, sau này về trông thây chắc phải xót cảnh lưu lạc mà rỏ nước mắt.
Bây giờ tạm trú ở đây, không phải là lâu dài chắc chắn, cho nên cứ luôn nhớ đến quê hương, lòng mong mỏi cố hương của mình chẳng khác gì một chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng sông có lúc buộc lại. Nhưng cái ngày ấy biết là ngày nào? Hiện nay mùa thu sắp hết, mùa rét sắp đến, trên thành Bạch Đế mỗi lúc trời chiều, tiếng chày đập vải đã thấy rộn rịp, mau kíp như giục những ai quên việc kéo thước phải sắm áo lạnh. Đáng buồn vô cùng (Ngô Tất Tố dịch).
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Hứng” là nói “nổi lên” (hứng). Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sì trước thu thì tình sâu xa; phàm núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nghe, có gì là không cùng với tấc lòng cùng chứa chất nhau, là không chợt tự nhiên tiếp xúc mà phát sinh ra. Tiên sinh với tấm lòng trung tín gặp buổi nhiêu linh, lại đem cái thân lưu ngụ trải qua mùa thu héo rạng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý tiêu tan, chẳng có mảy may hứng nào, vì thế có tám bài này. Số bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng); thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. Người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muốn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là tha diệu mà đề cũng đúng thực là để diệu; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. Từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. Như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. Tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà có người chưa mấy tin: xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tám thuần tả “hứng” thì sẽ biết tám bài là một vậy.
(1 - 4) “Lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cây) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong); chỉ một cõi “điêu thương* (héo hon) mà “trắng” thì tả rất mực “trắng”, “đỏ” thì tả rất mực “đỏ”, “thu” sở dĩ “hứng” chính là vì thế. Tiếp theo hạ chữ “Vu Sơn”, “Vu Giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sùm” (mịt mờ), thảy đều lạnh lùng, vắng lặng, mà hai câu “ba lãng”, “phong ván” thì thừa tiếp ngay “Vu Sơn, Vu Giáp”. Còn như nói “móc ngọc” tả tơi, “rừng phong” soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĩ thêm nỗi bi ai, cũng là nơi mà kẻ u nhân gửi niềm hoài bão. Sao lại ở hoài chốn Vu Sơn, Vu Giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất?
Thực đáng đau đớn bi thương! Khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt. Một giải xâu suốt cả tám bài, nối thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp nhặt lóng chim thúy), rồi than “bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy” (đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn).
(5 - 8) Kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều là “tha nhật lệ” (nước mắt ngày sau)! Kẻ không biết thì bảo “cô chu” (con thuyền lẻ loi) hà tất phải “nhất hệ” ấy chỉ là “cố viên tâm” (lòng nhớ vườn xưa)! Trên chữ “lệ” đặt chữ “tha nhật”: tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói “xứ xứ” (nơi nơi) chính là tiên sinh “buộc lòng” (hệ tâm) vào một nơi (nhất xứ); Bạch Đế thành ở phía đông Quý Phủ: đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ đến “dao thước” (dao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành Bạch Đế; khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới “châm” mà hạ chữ “thành cao” liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ của khách xa nhà vì đó mà rất mực thê lương. Các câu 3, 4 thừa các câu 1, 2; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8: cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.
Bài văn mẫu số 2
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là "câu đề" với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai có nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.
Đến hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng "yêu nước thương đời" lại càng thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Bài văn mẫu số 3
Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ ấy.
Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong không gian của buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ quê… và một cái gì đó rất mơ hồ, gợi trong lòng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xuân chín” một khoảng trời riêng của cảm xúc đang “chín” trong lòng nhà thơ, trong lòng người đọc.
Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của “Mùa xuân chín”. Nếu có “xuân chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh” ; “xuân già”. Nằm giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng cũng ngắn ngủi, mong manh vô cùng. Để lòng say đắm trong giây phút hoàn hảo nhất của vũ trụ ấy thì còn gì bằng!
Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.
“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái “chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng ửng” hây hây của đôi má các cô gái trong tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “ửng” của nắng. Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi “mơ”. “Đôi mùi nhả tranh lẫm tấm vàng”. Những “lấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đôi mắt của người đang say Không phải cái say “quên trời, quên đất”, cái say của nhà thơ là những phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hòa làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí. Đó là “bóng xuân”. Chỉ là “bóng”, rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hoàn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử, đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bò cuộc chơi…”
Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cô gái sẽ không còn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xuân rồi cũng sẻ qua, “xuân chín” rồi thì xuân sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không rung lên xúc động. “Đám xuân xanh ấy” Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta không khỏi suy tư. Thế thì ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,
Hổn hển như lời của nước máy…
Thầm thi với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang “vắt vẻo lưng chừng núi”, đang “hổn hển như lời của nước máy”. Những âm thanh không bay cao, bay xa mà vẫn “thầm thì với ai ngồi dưới trúc”. Từ “ai” rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ “thu”lại chỉ riêng cho “ai”. Chính là mình rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như vậy! Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác xa gặp lúc mùa xuân chín
Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp “Mùa xuân chín” mới có được giây phút ấm lòng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí bâng khuâng sực nhớ làng”.
Cái “sực nhớ” bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái “sực nhớ” của tác giả là hình ảnh của người con gái. “Chị ấy” là chị ruột, chị họ hàng hay chí là một người quen hay là…? Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái “sực nhớ”, điều mà ý thức không kiêm soát được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ điều khiển. Những từ, tiếng vần liền “trắng, nắng”, “chang chang” tạo cho người đọc cảm giác rõ rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con người thật đẹp.
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, không những chỉ có “Mùa xuân chín” mà còn “chín” cả lòng người thi sỉ, “chín” cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người còn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại muôn đời.
Bài văn mẫu số 4
Thơ Đường vốn nghiêm ngặt về niêm, luật, bố cục. Song những quy luật khắt khe ấy không hề trói buộc các bậc thánh thi như Đỗ Phủ. Dưới ngòi bút thi nhân, bài thơ vừa tuân thủ niêm luật chặt chẽ lại vừa bay bổng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của viên ngọc được soi rọi từ nhiều phía khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài đặc điểm trên
Xét theo nội dung miêu tả chung, bài Thu hứng lại có bố cục hai phần rõ rệt: bốn câu đầu tả cảnh, cảnh núi sông của vùng Quỳ Châu, thượng nguồn Trường Giang, nơi Đỗ Phủ lưu lạc tới vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới là tả tính, tình của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh ấy và tình này tạo nên sự thống nhất của bài thơ.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh mùa thu. Trước tiên đây là cảnh mùa thu của một nơi xác định. Người ta biết đây là tả cảnh vùng Quỳ Châu thuộc thượng nguồn sông Trường Giang không chỉ ở địa danh Vu Sơn, Vu Giáp, được nhắc tới ở câu thứ hai mà chính là ở cảnh vật đặc trưng do vùng này được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong phủ sương móc trắng, là cảnh kẽm Vu vách núi dựng đứng khi trời mù mịt, là núi Vu cao vút hiểm trở.
Cả một bức tranh phong cảnh hùng vĩ mà âm u hiện ra qua ngòi bút Đỗ Phủ. Bức tranh này có lớp lang chặt chẽ, hiện dần theo bước chân người. Thoạt đầu là cảnh rừng phong trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng này, Vu Sơn, Vu Giáp hiện ra qua một nét phác họa chung ở câu thơ thứ hai. Câu thứ ba, thứ tư đặc tả hai cảnh tiêu biểu nhất của núi Vu, kẽm Vu. Như vậy, bức tranh có toàn cảnh và cận cảnh, có bao quát và chi tiết, chứng tỏ một ngòi bút miêu tả điêu luyện, linh hoạt.
Cái thần của bức tranh chính là cảm xúc tác giả gửi trong từng nét vẽ lan tỏa vào lòng người đọc. Câu thơ thứ nhất bảy chữ, có hai chi tiết miêu tả, chi tiết nào cũng gợi nỗi buồn, từ cái lạnh lẽo của màu trắng xóa sương móc bao phủ khắp nơi, từ cái tang thương của rừng phong tiêu điều. Còn cái hiu hắt của hơi thu ở câu thứ hai càng làm tôn lên nỗi buồn bàng bạc thấm đượm trong câu trên.
Hai câu thơ, ba miêu tả chi tiết: nỗi buồn ngày càng rộng, càng sâu khiến cho cảnh vật hùng vĩ mà buồn bã, bí hiểm mà u hoài. Tới hai câu ba bốn, cảnh vật vừa có sự nhất quán với hai câu trên, vừa có sự phát triển. Trong khi đặc tả núi Vu, kẽm Vu, mỗi nơi tác giả tả một chi tiết nhưng cảnh vật sống động hẳn lên. Sóng thì ba lãng kiêm thiên dũng (vọt lên tận lưng trời), vừa vẽ lên chiều cao thăm thẳm của kẽm Vu, vừa tạo sự chuyển động dữ dội, mạnh mẽ.
Cảnh đám mây "sa sầm giáp mặt đất" không chỉ tả được cái độ cao của cửa ải trên núi Vu còn vẽ được sự giận dữ của mây, núi. Sông và trời, mây và núi không còn trong trạng thái tỉnh tại, u hoài như cảnh vật hai câu thơ trên mà đang chuyển động với một nội lực lớn lao, tạo nên vẻ đẹp hoành tráng cho bức tranh. Cả hai cảnh đó bổ sung cho nhau, tạo nên sự thống nhất đa dạng của cảm xúc toát ra từ bức tranh: trầm uất và bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.
Đứng trước cảnh sắc ấy, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ làm sao không nhớ quê được? Chính từ sự vận động nội tại đó, bốn câu thơ sau xuất hiện thật tự nhiên, hợp lẽ. Bốn câu thơ sau tả tình nhưng không xa rời cảnh, tình và cảnh quấn quýt với nhau. Hai câu thơ 5, 6 biểu hiện sinh động lòng nhớ quê với nhiều thủ pháp sinh động, Trong bảy chữ của câu 5, tình và cảnh như thống nhất: hoa cúc nở mà trông như cành hoa bằng nước mắt hư ảo, chập chờn, hiện tại và quá khứ như nối liền: "giọt lệ ngày trước" bỗng rơi cùng giọt lệ hôm nay.
Cái trục nối liền ấy tạo ra sự đồng nhất ấy là hai chữ lưỡng khai với nhiều nghĩa hàm ẩn, làm cho hình ảnh cúc và lệ trở nên đa nghĩa, Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo nên cùng một cảnh như hình ảnh ở câu 5. Chữ cố cũng tạo nên nghĩa hàm ẩn: vừa là buộc con thuyền lẻ loi nơi nhà thơ đang sống ở lại nơi đây, vừa có nghĩa là thắt lại, gói lại nỗi lòng thương nhớ quê.
Những cảm xúc dồn dập được tả trong câu 5, 6 tưởng như sẽ được tả trực tiếp và nâng cao hơn ở hai câu kết. Nhưng đến đây bài thơ bỗng từ tả tình chuyển sang tả cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh mọi người rộn rịp may áo rét, giặt giũ áo cũ. Tưởng như hai cảnh này không ăn nhập với tình kia, tưởng như ý bài thơ bị lạc. Song không phải như vậy. Đây là một thủ pháp dồn nén tình cảm vào bên trong hình ảnh để cho lời thơ, ý thơ thêm sâu sắc, có sức rung động mạnh hơn ở người đọc.
Âm thanh đập áo vốn là một âm thanh có sức gợi cảm lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ tới người thân đi xa, diễn tả một nỗi lòng nhớ thương, chờ đợi. Bạch Cư Dị đã tả nỗi lòng của người thiếu phụ, đêm tháng tám, tháng chín nghề tiếng chày đập lụa mà "sáng ra e bạc cả đầu". Cho nên sự xuất hiện tiếng chày trong bóng chiều tà tạo nên một dư âm vang vọng cho cả bài thơ.
Nỗi nhớ quê tha thiết của Đỗ Phủ trong một mùa thu tập loạn được bộc lộ trong bài thơ này đâu phải chỉ là tâm trạng của một người. Nó là nỗi lòng của trăm họ đang lầm than vì cảnh chiến tranh, giặc giã liên miên sau loạn An Lộc Sơn đời Đường đang xa lìa quê hương, phiêu bạt nơi góc biển chân trời.