TOP 25 Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) - Ngữ văn 12

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ Ngữ văn 12 sáng tạo đầy đủ, chi tiết, hay nhất nhằm giúp các học sinh nắm được ý chính của văn bản. Dưới đây là trọn bộ tài liệu gồm các đoạn văn tóm tắt nội dung chính văn bản Vợ chồng A Phủ lớp 12 mời các bạn cùng tham khảo.

Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 1)

Cuộc sống cực nhục, tối tăm và quá trình đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng lên tự giải phóng khỏi ách áp bức, kìm kẹp của bọn thực dân và chúa đất thống trị.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 2)

Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị sống lùi lũi, khổ cực như nô lệ trong nhà. Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhưng sức sống tiềm tàng vẫn trỗi dạy. Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ, cùng trốn khỏi nhà thống lí.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 3)

Mị là cô gái xinh đẹp, phải làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ cho gia đình. Mị ngày càng lầm lũi, ít nói. Trong dịp tết đến, Mị nghe được tiếng sáo khiến cô bồi hồi và muốn đi chơi nhưng A Sử ngăn cản. Trong một lần trêu gái, A Sử bị A Phủ đánh, vì tức giận A Sử bắt A Phủ về. Tại đây, A Phủ bị bắt đền bù và làm công tại nhà trừ nợ. Nhìn thấy, A Phủ bị trói, bị đánh đập Mị nghĩ về cuộc đời mình. Mị  cắt dây trói và giải thoát cho A Phủ. Mị cùng với A Phủ đến Phiềng Sa trở thành vợ chồng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 4)

Vợ chồng A Phủ câu chuyện kể về Mị cô gái xinh đẹp,hiền lành nhưng buộc phải làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ cho gia đình. Về làm vợ cho A Sử nhưng nàng trở nên ít nói, ít nói, lầm lũi. Trong dịp tết đến, Mị nghe được tiếng sáo khiến nàng trở nên bồi hồi và muốn đi chơi nhưng A Sử ngăn cản. Trong một lần trêu gái, A Sử bị A Phủ đánh, vì tức giận A Sử bắt A Phủ về. Tại đây, A Phủ bị bắt đền bù và làm công tại nhà trừ nợ. Nhìn thấy, A Phủ bị trói, bị đánh đập Mị nghĩ về cuộc đời mình. Nàng tủi thân và đồng cảm với số phận A Phủ nên quyết định cắt dây trói và giải thoát cho A Phủ. Mị cùng với A Phủ đến Phiềng Sa trở thành vợ chồng và A Phủ giác ngộ với cách mạng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 5)

Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi dây. A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 6)

Vợ chồng A Phủ là câu chuyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính là Mị và A Phủ.

Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, có tài thổi sáo, bị A Sử bắt về làm vợ, làm dâu nhà thống lí Pá Tra để gạt nợ đã mấy năm. Mấy tháng đầu về làm dâu, đêm nào Mị cũng khóc. Mị cầm nắm lá ngón định tử tự nhưng thương cha nên chấp nhận cuộc sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Sống trong cái khổ, mặt Mị lúc nào cũng buồn rười rượi, các công việc: quay sợi, thái cỏ cho ngựa, dệt vải, chẻ củi, cõng nước cứ nối tiếp nhau. Mị làm việc quần quật, vất vả hơn cả con trâu, con ngựa. Mị sống trong một căn buồng kín mít, có ô cửa sổ bằng bàn tay mà trông ra lỗ vuông ấy lúc nào cũng mờ mờ, trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Khi mùa xuân đến, tiếng sáo gọi bạn tình cất lên khiến Mị nhớ lại mình còn trẻ và Mị muốn đi chơi nhưng A Sử đã trói Mị vào cột trong buồng tối. A Sử bị đánh vì gây sự với đám trai làng, Mị mới được cởi trói để đi lấy thuốc, xoa dầu cho chồng.

A Phủ là một chàng trai nghèo, khỏe mạnh và mồ côi cha mẹ. Trong đêm tình mùa xuân, A Phủ đã đánh A Sử nên đã bị bắt, bị phạt và đã trở thành người gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Trong một lần đi chăn bò, vì sơ ý để hổ vồ mất một con bò nên A Phủ bị trói đứng ở góc nhà. Chứng kiến cảnh đó và nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị xót thương, đồng cảm rồi cắt dây trói cho anh. Họ cùng nhau chốn sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng nên họ trở thành du kích và quay về giải phóng quê hương.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 7)

  “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài viết về người dân vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện kể về hai nhân vật chính là Mị và A Phủ. Mị là cô gái H’mông xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay, được nhiều chàng trai theo đuổi. Mỗi khi tết đến xuân về trai gái đều hò hẹn nhau để cùng vui chơi, ca hát. Năm ấy, Mị đi chơi bị con trai nhà thống lí Pá Tra là A Sử bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ do năm xưa khi bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới hỏi phải đến vay nhà thống lí. Mỗi năm phải trả lãi một nương ngô nhưng mãi vẫn chưa trả được nợ. Lúc đầu cô không chấp nhận làm vợ A Sử định ăn lá ngón tự tử nhưng nghĩ về bố-người cha già đã vất vả nuôi cô khôn lớn, cô không đành lòng chết. Từ đây, cuộc sống của Mị không còn vui vẻ nói cười mà thay vào đó là sự khổ sở hơn kiếp trâu ngựa làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm hết năm này qua năm khác. Cuộc sống của Mị cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” chẳng nói chẳng rằng. Một mùa xuân nữa lại đến. Hôm ấy Mị uống rượu, cô thấy trong lòng phơi phới, nghe tiếng sáo gọi bạn tình Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử phát hiện. Hắn trói Mị vào cột nhà bằng thúng sợi đay và tóc của cô. Trong đêm mê man, tiếng sáo thúc giục cô bước chân đi chợt thấy nhói đau, ê ẩm người mới sực nhớ ra là đang bị trói. May mắn cho Mị là có chị dâu-những người phụ nữ cùng kiếp nô lệ cởi trói cho cô.

    A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ ơn trời anh rất khỏe mạnh, chăm chỉ lao động. Trong đêm mùa xuân ấy, vì bất bình trước thái độ ngang tàn, bạo ngược của A Sử mà đánh hắn trọng thương nên bị làng bắt vạ phải nộp 100 lạng bạc trắng nhưng không có tiền đành phải đi ở trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Công việc của A Phủ là chăn đàn bò, trong một lần không may anh để hổ bắt mất một con liền bị thống lí Pá Tra trừng phạt trói vào cột nhà nhịn ăn, nhịn uống và chịu rét chờ A Sử bắn được hổ sẽ tha.

    Lúc đầu nhìn cảnh tượng ấy Mị thản nhiên, hờ hững nhưng rồi lòng thương người cũng trỗi dậy khi nhìn thấy hai hàng nước mắt chảy xuống hõm má trên gương mặt tiều tụy đáng thương của A Phủ. Cô đã dũng cảm cắt dây cởi trói cho A Phủ, hai người cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, họ nên đôi vợ chồng và cùng tham gia cách mạng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 8)

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử - con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài ...

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 9)

Câu chuyện về Mị và A Phủ, Mị cô gái xinh đẹp, nết na vì thương cha cô đã chấp nhận gán nợ về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Nói là làm dâu nhưng Mị rất khổ, làm đủ thứ việc không bằng con trâu, con ngựa trong nhà. Mị nhớ về thời gian được đi chơi, được tự do như trước kia.

A Phủ chàng trai khỏe mạnh, vì sự bất bình trước A Sử, A Phủ ra tay và bị bắt về nhà thống lí Pá Tra. Cảnh tượng A Phủ bị đánh đập và tra tấn đã quá quen thuộc với Mị. Mị không còn cảm xúc.

Trong một lần để hổ ăn mất bò, A Phủ bị trừng phạt, chàng bị trói lại còn bị bỏ đói. Mị trong một lần tình cờ đã bắt gặp dòng nước mắt chảy dài của A Phủ. Mị suy nghĩ về thân phận mình và thương cho người cùng cảnh ngộ của A Phủ. Cô cắt dây trói giải thoát A Phủ, cả hai sau đó cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.

Cả hai lặn lội đến Phiềng Sa và sau đó thành vợ chồng với nhau.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 10)

Vợ chồng A Phủ kể về cuộc đời đôi nam nữ người H’Mông, người con gái tên là Mị và người con trai là A Phủ. Khi xưa, cha mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền đã phải vay tiền của cha thống lí Pá Tra, món nợ ngày càng nhiều chưa thể trả nhưng Mị vẫn nhất định không lấy A Sử – con trai thống lý Pá Tra để xóa hết nợ. Một đêm nọ, Mị bị A Sử bắt về nhà. Tại nhà thống lí Mị bị đối xử thậm tệ còn thua con trâu con ngựa. Không chịu tủi nhục Mị định tự tử nhưng không đằng chết tại nhà A Sử vì thương cha già. Khổ nhiều cũng thành quen, một cái Tết nữa đến, Mị uống rượu và nghe tiếng sáo gọi bạn tình nhớ lại ngày xưa, Mị có ý định đi tìm hạnh phúc, khi chuẩn bị đi chơi thì lại bị A Sử bắt trói đứng. A Phủ chàng trai hiền lành, khỏe mạnh, vì bất bình đã đánh A Sử nên đã bị bắt về lao động không công để trừ nợ, chàng trai bắt đầu cuộc sống tại nhà lí trưởng. Trong một lần A Phủ đi chăn bò không cẩn thận đã để hổ vồ mất bò nên bị A Phủ phạt bị trói đứng ở góc nhà, không cho ăn cho uống nhiều ngày liền đến kiệt sức. Mị thấy vậy nhưng hoàn toàn không có cảm giác nhưng khi nhìn thấy A Phủ khóc vì đói, rét, kiệt sức, tuyệt vọng Mị động lòng thương và thấy hai người cùng cảnh ngộ đã quyết định cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng nhau bỏ trốn thật xa. Cả hai chạy trốn thật nhanh đến Phiềng Sa rồi kết duyên thành vợ thành chồng. A Phủ gia nhập với cách mạng kết thân với các cán bộ A Châu và A Phủ cùng nhau chống giặc Pháp xâm lược, bảo vệ quê hương.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 11)

Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng. A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 12)

Câu chuyện kể về một cô gái có tên là Mị, nàng là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, nết na, đa tài nhưng bạc phận. Vì cha mẹ của nàng thiếu nợ nhà Thống Lý Pá Tra nên nàng bị bắt về làm vợ của A Sử, con trai nhà Thống Lý để trừ nợ cho cha. Từ khi nàng về nhà Thống Lý, nàng trở nên ít nói hơn, suốt ngày lủi thủi trong nhà như con rùa nuôi trong xó cửa. Năm ấy tết đến, Mị tình cờ nghe được tiếng sáo ở đâu vọng lại, tâm hồn nàng trở nên bồi hồi, thiết tha, nàng nhớ lại những chuyện xưa kia và nàng muốn đi chơi, nhưng bị chồng nàng ngăn cản không cho đi, bắt nàng phải ở nhà. Trong một lần chồng nàng là A Sử đi chơi bên Làng bên, vì chọc ghẹo con gái nên bị A Phủ đánh, sau đó A Sử bắt A Phủ bồi thường tiền thuốc men cho A Sử, A Phủ không có tiền trả nên bị A Sử bắt về làm công trừ nợ suốt đời cho nhà A Sử. Trong đêm tình mùa đông năm ấy, A Phủ bị A Sử trói ở góc nhà, Mị trông thấy và nàng nghĩ lại cuộc đời mình, nàng thấy tủi thân cho và thương thay cho số phận của A Phủ, Nàng đã cởi trói cho A Phủ và cả hai cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 13)

Câu chuyện kể về hai con người H'mông (Mèo): Mị và A Phủ. Mị hiếu thảo, giàu sức sống, yêu đời nàng vì lòng hiếu thảo quyết định lấy A Sử giúp gia đình thoát nợ. Còn A Phủ vì đắc tội với A Sử nên bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm công trừ nợ. Mị say mê, yêu đời nhưng suốt ngày lầm lũi ít nói ít cười, làm công không thua gì con vật trong nhà. Còn A Phủ bị đánh đập, tra tấn vì để hổ ăn mất bò. Cảm thông hoàn cảnh và cùng cảnh ngộ, Mị cởi trói cho A Phủ chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra sau khi đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng với nhau. A Phủ sau này được cán bộ là A Châu giác ngộ theo cách mạng và trở thành du kích tham gia chiến đấu chống thực dân Pháp để bảo vệ quê hương, đất nước.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 14)

Mị là một cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giỏi giang, yêu đời, thích tự do. Chỉ vì bố mẹ Mị vay nợ nhà thống lí Pá Tra để cưới nhau không trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho gia đình này. Làm vợ A Sử, Mị phải sống kiếp nô lệ khổ nhục, chỉ muốn chết, nhưng vì thương bố và sợ thần quyền nên Mị đành câm lặng chịu đựng.

A Phủ là một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi, rất dũng cảm, nhiều cô gái mê, nhưng vì nhà nghèo nên không cưới được vợ. Trong hội xuân, A Phủ đã đánh A Sử nên bị thống lý Pá Tra bắt về đánh đập và phạt vạ 100 đồng bạc trắng. Không có tiền nộp phạt, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí để trừ nợ. Do sơ ý để cọp vồ mất một con bò nên A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cọc chờ chết, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Cả hai cùng trốn khỏi Hồng Ngài.

Đến Phiềng Sa, họ trở thành vợ chồng, nỗ lực xây dựng cuộc sống mới. Quân Pháp tràn tới, dân Phiềng Sa lại hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến, A Phủ kết nghĩa anh em với A Châu. Rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 15)

Vợ chồng A Phủ là câu chuyện kể về cuộc đời của cô gái trẻ xinh đẹp tên là Mị, sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Hồng Ngài. Mị bị A Sử trong làng bắt cóc về làm vợ để gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cuộc đời Mị lại tiếp tục những chuỗi ngày nghèo khổ và cơ cực hơn gấp ngàn lần, hàng ngày cô phải lao động quần quật không kể trời nắng hay mưa, vất vả hơn cả con trâu, con ngựa.

Mùa xuân, mùa của ngày hội đến, Mị uống rượu, tiếng sáo gọi bạn tình làm Mị muốn đi chơi, muốn được ra ngoài, nhưng A sử không cho, trói chặt Mị ở trong buồng. A Sử bị đánh vì gây sự với đám trai làng, lúc đó, Mị mới được cởi trói để đi lấy thuốc, xoa dầu cho chồng. Cũng đêm đó, A Phủ một chàng trai khỏe mạnh, giỏi lao động nhưng vì nghèo và mồ côi, do đánh A Sử nên A Phủ đã bị phạt vạ phải làm ở đợ cho nhà thống lý để trừ nợ. Mùa đông gió rét kéo đến, rừng đói, hổ báo kéo đến phá nương, phá rẫy, ăn thịt trâu bò. Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò, nên đã bị trói đứng, bỏ đói mấy đêm liền, chờ khi A Sử bắn được hổ mới tha cho. Một đêm, Mị trở dậy thổi lửa để sưởi ấm, thì bắt gặp hai dòng nước mắt trên gò má A Phủ. Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ, Mị thương thay cho cả thân phận mình. Mị đã cắt đứt dây trói và cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra. Cả hai chạy trốn trong đêm, băng qua những cánh rừng để đến Phiềng Sa, họ thành vợ thành chồng xây dựng một cuộc sống mới. A Phủ đến với cách mạng,họ theo cán bộ A Châu và A Phủ trở thành đội trưởng du kích. Họ cầm súng đánh đuổi giặc thù bảo vệ gìn giữ bản làng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 16)

Truyện kể về cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông là Mị và A Phủ: Mị là một cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, nhưng vì món nợ từ đời cha mẹ nên cô bị bắt về làm dâu gạt nợ cho gia đình thống lí Pá Tra. Cô phải sống không khác gì trâu, ngựa, bị bóc lột sức lao động, hành hạ về thể xác và áp chế về tinh thần. Cuộc sống triền miên trong đau khổ, tủi nhục đã biến Mị thành một cô gái lúc nào cũng “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”, “mỗi ngày Mị càng không nói”, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tết đến, không khí rộn ràng, tiếng sáo gọi bạn, men rượu… đã làm hồi sinh lòng yêu đời, sức sống của Mị, cô cảm thấy lòng “phơi phới trở lại”, “muốn đi chơi”. Nhưng khi Mị sửa soạn váy áo đi chơi thì A Sử về, hắn đã trói Mị vào cột nhà song “tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.

A Phủ là một chàng trai nghèo, mồ côi, khoẻ mạnh, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi, bị phạt vạ nên phải làm người ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Một lần vì để hổ ăn thịt một con bò mà A Phủ bị đánh đập, bị trói đứng vào cột. Khi thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị đã thức tỉnh và cắt dây trói cho A Phủ, sau đó Mị chạy theo A Phủ trốn đi.

Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ chồng tạo dựng một cuộc sống mới. Nhờ sự giúp đỡ của A Châu-cán bộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng mọi người cầm súng để giữ bản làng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 17)

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu. Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử - con trai thống lý Pá Tra - để xóa nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ.

Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.

Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.

Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa. A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm - chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.

Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn toàn vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.

Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 18)

Tập Truyện Tây Bắc được Tô Hoài viết năm 1952, gồm có 3 truyện: Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn, Cứu đất cứu mường. Tập truyện là kết quả của một chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài đi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập truyện này.
Ông viết về loài vật nhưng lại quá đỗi giống thân phận đời người. Ông yêu chữ và cố công tích cóp chữ của cõi nhân sinh để làm giàu cho trang viết của mình. Trả lời câu hỏi của Văn Cầm Hải: Sức đâu mà chữ nhiều thế? Ông tủm tỉm cười: “Một phần là trời cho, một phần là đọc, lượm lặt chữ của nhân gian, chữ của giời - ông chỉ tay ra ngoài khung cửa xanh - như cô hàng bánh nói gì, mình cũng phải học. Các anh trẻ bây giờ nhiều người viết được nhưng viết hay thì hiếm quá. Suốt đời tôi chỉ làm một người nhặt chữ. Văn chương nghệ thuật thì vô cùng nhưng suy cho cùng phải là người giỏi chữ. Anh có tư tưởng lớn lao đến đâu mà không giỏi chữ, anh không thể trở thành nhà văn”.

Vợ chồng A Phủ tập trung khắc hoạ 2 nhân vật là Mị và A Phủ. Trong đó, Mị là nhân vật trung tâm, là linh hồn của truyện. Mở đầu tác phẩm, người đọc bị thu hút ngay bởi hình ảnh người con gái “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Đó là Mị - cô con dâu của nhà thống lí Pá Tra - một chúa đất đầy quyền thế.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 19)

Tô Hoài đã có trên 150 tác phẩm với nhiều đề tài và nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, hồi kí, kinh nghiệm sáng tác... Trước cách mạng, Tô Hoài nổi tiếng với truyện Dế mèn phiêu lưu kí. Sau năm 1945, có Truyện Tây Bắc, Mười năm, Miền Tây, Cát bụi chân ai,...Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

Tô Hoài là nhà văn đa phong cách. Ông viết truyện thiếu nhi, truyện người lớn. Thể loại nào cũng để lại dấu ấn riêng. Tuy nhiên cũng như tính cách ông, văn phong ông điềm đạm, không dễ “nổi nóng”, giản dị, trong sáng, đầy cảm xúc, hóm hỉnh với nhiều triết lí thâm trầm.

Truyện kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc trải qua bao nhiêu sóng gió cuối cùng nên duyên vợ chồng. Vợ A Phủ là Mị là cô gái vừa xinh đẹp lại có tài thổi sáo hay chính vì tài sắc vẹn toàn nên cô được nhiều trai làng để ý. Cha Mị ngày xưa vì nợ thống lý Pá Tra khoản nợ lớn cho nên hàng năm dù nai lưng ra làm vẫn không đủ trả cho họ. Nhà thống lý giàu, con trai A sử nhiều lần ngỏ ý muốn lấy Mị nhưng Mị không đồng ý nhưng sau một đêm Mị đã bị A sử lừa bắt về làm vợ từ đó Mị sống trong cảnh bị bạo hành vùi dập, đối xử không giống như đối với một con người.

Không chịu được nhục nhã Mị đã có nhiều lần định tự tử nhưng nghĩ rằng mình chết đi rồi cha mình lại nợ càng thêm nợ, cho nên đành vì cha mà câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Đến ngày tết Mị chỉ biết lén uống rượu một mình mong muốn quên đi thực tại đau khổ nhưng càng uống càng tỉnh.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 20)

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, người Hà Nội (bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức). Là một nhà văn có nguồn sáng tạo dồi dào - một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình thợ thủ công, vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều nghề để kiếm sống: dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp.

Tính từ khi khởi nghiệp văn - năm 1940 - cho đến nay, Tô Hoài chuyên viết và có đóng góp đặc sắc trên bốn mảng đề tài: vùng quê ngoại thành Hà Nội - hiện tại và lịch sử; miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội; sáng tác cho thiếu nhi; chân dung và hồi ức.

Những ý nghĩ ấy thúc đẩy Mị đi đến hành động cởi trói cho A Phủ rồi chạy theo A Phủ, thoát ra khỏi cái địa ngục trần gian tại nhà thống lí Pá tra. Nghệ thuật Nghệ thuật kể chuyện khéo léo, kết hợp trần thuật theo quan điểm tác giả và trần thuật theo quan điểm nhân vật; khắc hoạ tinh tế các quá trình tâm lí nhân vật; nghệ thuật tả cảnh, dựng cảnh sống động; ngôn ngữ tác phẩm trong sáng, thanh thoát, nhuần nhị mang phong vị miền núi đậm đà... đó chính là những yếu tố khẳng định tài năng trong nghệ thuật văn xuôi của Tô Hoài.

Nhất là tiếng sáo gọi bạn tình lại khiến cho Mị lạ được sống lại những ngày hạnh phúc trong tình yêu của mình. Định thay áo váy đi chơi nhưng nào ngờ A sử từ đâu về bắt trói Mị bằng dây đay bằng một cách tàn nhẫn. Dù bị trói nhưng trong cơn nửa tỉnh nửa mê mị vẫn mơ theo những cuộc chơi những cuộc vui mà hồi trẻ Mị vẫn thường tham gia cho tới lúc vùng bước đi mới hay mình vẫn đang bị trói.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 21)

Vợ chồng A Phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mị là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mị đã có người yêu . Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xóa nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ. Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ, câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng, định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.

Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử tội và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.

Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm - chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.

Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người đờ đẫn, vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mị đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.

Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương .

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 22)

Mị là cô gái tự do, xinh đẹp, có nhiều tài lẻ và được nhiều người theo đuổi. Một đêm, nghe tiếng bước chân ở vách nhà, tưởng người yêu mình, Mị đưa tay ra thì bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra bắt đi. Hôm sau, Mị bị trình ma làm dâu nhà thống lí để trả nợ ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau vay tiền của nhà lão. Thời gian đầu, Mị vô cùng phiền muộn, cô luôn nghĩ đến cái chết để được giải thoát, nhưng khi nghe lời cha can ngăn và nghĩ đến hoàn cảnh của cha mình, Mị không nỡ ăn lá ngón tự tử mà quay về tiếp tục làm con dâu gạt nợ.

Ngày qua ngày, Mị lầm lũi như con rùa trong xó cửa, hàng ngày lặp đi lặp lại những việc làm như một cái máy, cảm xúc trong Mị bị chai sạn, cô không vui cũng không buồn.

Ngày tết, Mị lén uống rượu, khi Mị đã ngà ngà say, tiếng sáo diều đưa Mị về những ngày tươi đẹp trước, Mị thấy bổi hổi bồi hồi, sống lại bao kỉ niệm. Mị quyết định sắm sửa đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt và trói đứng ở cột nhà không cho đi. Đêm đến, Mị vẫn miên man trong cơn say nhưng khi tỉnh rượu, Mị thấy đau và sợ.

A Sử bị A Phủ đánh, Mị được cởi trói để đi hái thuốc cho chồng, Mị chăm sóc A Sử nhưng còn bị hắn đánh. Mị nghe thấy người ta đánh đập A Phủ, từ đó A Phủ phải làm thuê cho nhà thống lí để trả nợ vì đánh A Sử. Một hôm A Phủ làm mất bò, lại bị nhà thống lí đánh, trói ở góc nhà. Mấy hôm liền, Mị không quan tâm nhưng đến khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị động lòng thương cảm, cắt dây cởi trói và cùng A Phủ bỏ trốn đến Phiềng Sa.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 23)

Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, đôi vợ chồng người Mông ở vùng núi Tây Bắc. Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, được nhiều trai làng say mê. Tuy sinh ra trong gia đình nghèo khó, bố mẹ lại có món nợ với nhà thống lí, Mị kiên quyết xin cha cho mình làm nương ngô trả nợ. Nhưng một đêm mùa xuân, A Sử lừa bắt Mị về trình ma để làm vợ nó. Không chấp nhận kiếp con dâu gạt nợ, Mị định tự tử để tự giải thoát nhưng vì thương cha, cô đành vứt nắm lá ngón xuống đất và cam chịu cuộc sống địa ngục trần gian trong nhà thống lí. Ở đây, cô bị bóc lột sức lao động đến xương tủy, bị hành hạ cả về thể xác và tinh thần. Lâu dần, Mị trở nên dửng dưng, cam chịu, vô cảm. Cha Mị chết đi, Mị cũng không nghĩ đến chuyện tự tử nữa. Một đêm tình mùa xuân, cảnh sắc Hồng Ngài cùng men rượu và tiếng sáo khơi dậy trong Mị những cảm xúc đã mất từ lâu. Cô nhớ về quá khứ tươi đẹp và muốn sửa soạn đi chơi như bao người khác, A Sử thấy vậy liền trói đứng cô vào cột bằng cả thúng dây đay và mái tóc dài của cô. Mị đau khổ nghĩ mình không bằng con trâu, con ngựa. Cũng đêm đó, A Sử đi chơi gây sự với trai làng bị A Phủ đánh trọng thương, Mị được cởi trói để chăm sóc chồng. A Phủ bị xử kiện, bị đánh đập và trở thành người ở gạt nợ cho thống lí. Sau đêm đó, Mị trở về vô cảm, dửng dưng như trước. Mấy năm sau, một lần A Phủ mải bẫy nhím để hổ bắt mất bò của thống lí. A Phủ bị trói đứng vào cột, bị bắt nhịn đói nhịn khát suốt mấy ngày trời. Ngày nào Mị cũng ra sưởi lửa hơ tay nhưng không mảy may để ý gì đến A Phủ. Đến khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị hồi tưởng lại đêm năm nào mình cũng bị trói như vậy. từ thương mình đến thương người, Mị càng căm hận sự độc ác của cha con thống lí. Đỉnh điểm của tình thương, Mị lấy dao cắt dây trói giải thoát cho A Phủ nhưng nghĩ đến việc mình ở lại nhất định sẽ chết, Mị chạy theo bỏ trốn cùng A Phủ. Hai người đỡ nhau chạy trốn sang Phiềng Sa. Ở đây, họ thành vợ thành chồng và theo A Châu làm cách mạng, đánh Pháp bảo vệ quê nhà.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 24)

Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Trá. Quanh năm, Mị chỉ biết làm hết mọi công việc trong nhà. Khi mùa xuân về, Mị cũng muốn đi chơi. Nhưng A Sử - chồng của Mị trở về đã trói cô trên cột. Cả đêm Mị phải đứng trói như thế. Có tiếng xôn xao phía ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. A Sử chệnh choạng vào buồng. Áo rách toạc một mảnh vải. Lúc này, người chị dâu mới đến cởi trói cho Mị, rồi bảo cô đi hái thuốc cho chồng. Đến khi Mị về thì nhìn thấy A Phủ - người đã đánh A Sử quỳ giữa nhà. Kể từ hôm đấy, A Phủ phải làm thân nô lệ cho nhà thống lí Pá Trá. Một lần nọ, A Phủ để hổ ăn mất một con bò, bị thống lí phạt trói. Đêm ấy, Mị dậy để thổi lửa, nhìn thấy dòng nước mắt chảy trên gò má của A Phủ. Mị nghĩ đến thân phận mình, liền cởi trói cho A Phủ. Một lúc sau, Mị chạy theo A Phủ. Hai người trốn Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. A Phủ gặp được A Châu, tham gia cách mạng. Họ cùng nhau chiến đấu để bảo vệ bản làng.

Tóm tắt Vợ chồng A Phủ (mẫu 25)

Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được đánh giá là một cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét : “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”.

Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủhơn những đóng góp của ông với nền văn học nước nhà. Tô Hoài nổi tiếng với những tác phẩm như truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Quê nhà, Đêm mưa, Xóm giếng, tiểu thuyết Nhớ Mai Châu, Kẻ cướp bến Bỏi, hồi kí Cát bụi chân ai, Tự truyện, tập truyện ngắn Tây Bắc. Không chỉ thành công ở truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, ở thể loại truyện ngắn ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình một phong cách riêng. Truyện ngắn của ông hấp dẫn người đọc ở mọi lứa tuổi với lời kể chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật sinh động. Chuyện về một làng quê làm nghề dệt cửi với biết bao lo toan, xuôi ngược mà cuộc sống vẫn vất vả bộn bề đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Nó có sức phát triển bền bỉ qua năm tháng. Vì cuộc sống công nghiệp bận rộn, gấp gáp, nhiều người yêu văn đã tìm đọc truyện ngắn. Họ vẫn thấy ở truyện ngắn những bài học cuộc sống, những tâm tình về số phận con người, cả định hướng tương lai. Các nhà văn tâm huyết với nghề cũng đang lao động không ngừng để tìm hướng phát triển mới của truyện ngắn.

Tác giả - Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Tác giả

1. Tiểu sử 

- Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen.

- Quê nội: thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).

- Sinh ra và lớn lên ở quê ngoại: làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

- Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như: làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,... và nhiều khi thất nghiệp.

- Năm 1943, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

     Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941); O chuột (tập truyện, 1942); Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953); Miền Tây (tiểu thuyết, 1967); Ba người khác (tiểu thuyết, 2006),...

b. Phong cách nghệ thuật

- Hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.

Tác phẩm

1. Tóm tắt tác phẩm

     Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đánh đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng.

     A Phủ là một chàng trai nghèo, mồ côi, khỏe mạnh, gan góc và giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dậy trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.

      Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.

2. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc - tập truyện được giải Nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954 - 1955.

- Viết năm 1952, đây là sản phẩm của chuyến thâm nhập thực tế, cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc suốt 8 tháng của Tô Hoài trên núi cao đến các bản làng mới giải phóng.

b. Chủ đề

      Phản ánh số phận đau thương và quá trình đến với con đường tự do, con đường cách mạng của các dân tộc ít người ở Tây Bắc.

c. Bố cục (3 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến ... "bao giờ chết thì thôi"): Tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị.

- Phần 2 (tiếp theo đến ... "đánh nhau ở Hồng Ngài"): Hoàn cảnh của A Phủ.

- Phần 3 (còn lại): Cuộc tự giải thoát của Mị và A Phủ.

3. Tìm hiểu chi tiết

a. Nhân vật Mị

 * Cảnh ngộ của nhân vật Mị:

- Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí: cha mẹ nghèo, không trả được nợ (món nợ từ ngày cưới, lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.

- Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm không ngưng nghỉ: "Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà con gái nhà này thì làm không nghỉ tay".

- Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng.

* Tâm trạng và hành động:

     Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.

* Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:

- Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".

- Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.

- Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.

→ Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.

* Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:

Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:

- Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân: "Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác", "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà."

- Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.

- Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo", "Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"...

* Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:

- Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết"...

- Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

- Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".

- Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm, hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà, Mị vẫn đang ru mình trong đêm xuân. Tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉnh giấc, nàng đã trở lại với hiện tại đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.

* Diễn biến tâm lý trong đêm đông:

- Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay", vì cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà thống lí thường xuyên.

- Nhưng "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.

- Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: "ở đây thì chết mất".

- Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.

b. Nhân vật A Phủ

* Xuất thân của A Phủ

- Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản Mường, nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ.

- Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà thống lí

- Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van, xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.

- Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng", "cày nương", "cuốc mương", "săn bò tót", "bẫy hổ", "chăn bò", "chăn ngựa", "quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.

- Khi bị hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt

- Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.

- Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.

- Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khuỵu xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên, chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do ở người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

c. Giá trị nội dung

- Giá trị hiện thực:

+ Phản ánh chân thực số phận của người dân nghèo miền Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến tàn bạo.

+ Thấy rõ sự tàn bạo, độc ác của kẻ thù mà tiêu biểu là cha con nhà thống lí Pá Tra. Chúng đã bóc lột, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần người dân lao động nghèo, miền núi.

+ Thông qua cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã diễn tả thật sinh động quá trình thức tỉnh vươn lên tìm ánh sáng cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc.

- Giá trị nhân đạo:

+ Cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ cả về tinh thần và thể xác của những người lao động nghèo khổ như Mị, A Phủ.

+ Phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp đáng quý ở Mị, A Phủ. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, cần cù, yêu tự do và đặc biệt là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở họ.

+ Tố cáo ách thống trị phong kiến miền núi bạo tàn, lạc hậu đã chà đạp và bóc lột con người đến xương tủy.

+ Hướng người lao động nghèo khổ đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.

d. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề...).

- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý; dẫn dắt những tình tiết đan xen, kết hợp một cách khéo léo, tạo sức lôi cuốn.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lý với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.

- Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

 

Chủ đề:
Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!