TOP 35 bài Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) 2024 HAY NHẤT

1900.edu.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 11 văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất, nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả cao nhất.

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Sơ đồ tư duy

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử năm 2021

Dàn ý chi tiết

Dàn ý số 1

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới.

- Bài thơ được rút ra từ tập Thơ Điên.

- Nội dung: Bài thơ là tình cảm hồi đáp mà Hàn Mặc Tử gửi cho Hoàng Thị Kim Cúc khi Hoàng Thị Kim Cúc gửi thư chúc ông chóng lành bệnh kèm một bức tranh phong cảnh.

- Bài thơ là sự đan xen hòa quyện giữa cảnh và tình nơi xứ Huế mộng mơ, nhẹ nhàng.

2. Thân bài:

Khổ 1:Cảnh thiên nhiên xứ Huế

* Câu 1:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

- Câu thơ là dấu chấm hỏi lửng, thể hiện nỗi lòng nhớ thương, băn khoăn

+ Đó là lời mời thân thiện, gắn bó

+ Là lời trách móc, giận hờn khéo léo, thiết tha

+ Thể hiện thời gian đã lâu rồi tác giả chưa ghé thăm thôn Vỹ.

- Câu 2,3:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

+ Cảnh vật thiên nhiên hiện lên thật đẹp, căng tràn sức sống, tươi xanh

+ Cảnh vật mang trong mình vẻ đẹp thanh tao, dịu nhẹ

+ Tạo cho người đọc một cảm giác sảng khoái, êm đềm, du dương, bay bổng

- Câu 4:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

+ Hai hình dạng đối lập: vuông vức mặt chữ điền với dáng vẻ mảnh mai, thanh tao của lá trúc

+ Thể hiện duyên dáng, nhịp nhàng, e thẹn của những cô gái xinh xắn, tài sắc, phúc hậu của người con gái thôn quê.

* Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng

- Vẻ đẹp của tạo hóa hiện lên với 2 màu sắc đan xen: cảnh đẹp nhưng lại buồn, mang dáng dấp sự chia lìa, lẻ loi: gió theo lối gió, mây đường mây.

- Cuộc chia lìa ấy ghi vào lòng sông những cung bậc thê lương: dòng nước buồn thiu; hoa bắp lay lắt, nổi trôi.

- Cảnh vật chỉ là bức màn biểu hiện cho lòng người “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thật đẹp còn người lại chẳng thể về để thưởng thức thì cảnh liệu rằng còn đẹp nữa hay chăng. Vỹ Dạ nhớ anh, lòng em cũng nhớ anh, mong anh.

- Câu 3.4:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

- Trăng vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng là nơi để con người ta gửi gắm tình cảm, chút tâm tư sâu lắng. Thế nhưng ở đây lại là “bến sông trăng”. Đây vừa là hình ảnh tả thực- ánh trăng chiếu xuống mặt nước, lan tỏa trên mặt nước vừa là hình ảnh biểu trưng- sự vô định (thuyền ai), mênh mông dạt dào. Nỗi niềm tâm tư của tác giả như lan tỏa, thấm sâu, rộng lớn vô ngàn. Trong người lúc này là sự rưng rưng, xót xa, man mác đến nhói lòng.

- Mở rộng: Đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam”: “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.

* Khổ 3: Mộng ảo của tâm hồn thi nhân.

- Khổ thơ là lời bộc bạch trần tình tả thực về bệnh tình của tác giả: bệnh tình của người khiến hạn chế về thị giác: nhìn không ra, mờ nhân ảnh. Từ đó, khiến cho con người rơi vào cô đơn; ngậm ngùi.

- Thể hiện những mộng tưởng đơn giản: mở khách đường xa khách đường xa, tác giả mong mình có thể được đến thôn để Vỹ thưởng thức cảnh và gặp người thôn Vĩ, để đáp lại tình cảm trân quý từ người bạn của mình.

- Áo em trắng quá nhìn không ra:

+ Hình ảnh người phụ nữ thướt tha uyển chuyển trong tà áo dài xứ Huế.

+ Ánh mắt anh do sự ảnh hưởng sức khỏe đã không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp của em nhưng vẫn cảm nhận được hình bóng và dáng vẻ dịu dàng của em.

+ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh: Quang cảnh thiên nhiên nơi tác giả sinh sống. Với tác giả mọi thứ giờ đây chỉ là ảo ảnh, mơ hồ, không hiện diện được rõ nét nữa.

+ Ai biết tình ai có đậm đà: Dù trong bệnh tật đau đớn, khó khăn, cô đơn nhưng trái tim tác giả vẫn đong đầy yêu thương: đó là tình yêu quê hương đất nước, xứ xở và tình cảm mãnh liệt gửi gắm đến em.

+ Tình cảm ấy lúc nào cũng dạt dào, đậm đà, say mê.

3. Kết bài

* Nghệ thuật:

- Chuyển mạch thơ linh hoạt: không theo sự vận động của không gian thời gian nhưng nhất quán và đồng điệu với tâm tư lòng người.

- Hình ảnh thơ giàu sức gợi, độc đáo, sử dụng những gam màu nóng nhẹ đan xen nhẹ nhàng: mướt quá, xanh, nắng,…=> Tạo nên cõi trần gian hư thực mơ mộng, bay bổng và tuyệt đẹp.

- Các câu hỏi tu từ cuối mỗi dòng thơ, mang nỗi niềm da diết khắc khoải.

- Nhịp điệu thơ không theo một quy luật nào mà bị chi phối bởi dòng chảy cảm xúc và nội tâm chính tác giả.

=> Thể hiện sâu sắc nỗi lòng tác giả muốn gửi gắm.

* Nội dung:

- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả.

- Tình yêu mãnh liệt, nồng nàn dành cho người bạn Hoàng Thị Kim Cúc.

- Khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được sống để cảm nhận và tận hưởng cho kì hết những cái đẹp về cảnh và người nơi trần thế.

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm: “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.

2. Thân bài

– Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ.

– “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

– Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế.

– Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.

– Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh.

– “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ.

– Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng.

– Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt.

– Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt.

– Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương.

–> Cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.

3. Kết bài:

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.

Dàn ý số 3

1. Mở bài:

- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:

Ví dụ:

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng không được may mắn trong cuộc sống. Khi ra đi ông để lại một kho tàng văn thơ vô cùng to lớn. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hàn Mặc Tử đó là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ nói về cảnh nơi thôn Vĩ, nơi có người ông thương.

- Giới thiệu khái quát nội dung khổ thơ đầu: Cảnh đẹp nơi thôn Vĩ được thể hiện rõ nhất qua khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

2. Thân bài: Cảm nhận khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

* Khái quát về bài thơ:

- Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

  • Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu tiên trong tập Thơ điên (về sau đổi tên thành Đau thương).
  • Bài thơ được viết khi Hàn Mặc Tử nhận được một tấm bưu thiếp từ người con gái mà nhà thơ thầm thương, Hoàng Thị Kim Cúc.

- Địa danh "thôn Vĩ Dạ" : Vĩ Dạ là một phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

* Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

- Lời trách móc nhẹ nhàng, duyên dáng, thân tình, cũng có thể là lời nhà thơ tự vấn lòng mình

- Sự độc đáo trong dùng từ, 7 chữ nhưng 6 chữ là thanh bằng -> Cho thấy nỗi buồn tha thiết, tiếc nuối của tác giả

=> Câu hỏi gợi lên sự trách móc thầm của nhân vật trữ tình, tự nhủ lòng mình sao dễ lãng quên một nơi mà mình từng gắn bó, một phong cảnh thiên nhiên nên thơ của Huế được điển hình qua thôn Vĩ.

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên."

- Nhờ ánh nắng, cảnh vật như bừng sáng hơn

  • Những hàng cau thẳng tắp và nắng ban mai tràn ngập không gian
  • Nắng lan tỏa đến khắp nơi, mang một sắc màu đẹp đẽ

- “nắng mới lên” : cái nắng sớm ban mai, nhẹ nhàng, tinh khiết

-> Câu thơ làm bật lên vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ

"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

- “mướt”: một trạng thái gợi lên sự sống mơn mởn, mướt mát của cảnh vật

- sắc xanh "như ngọc" mang ý nghĩa tượng trưng cho một làng quê yên bình, trù phú.

=> Vườn tược nơi đây xanh màu ngọc, càng lung linh hơn dưới nắng mai khi lá cành còn đọng sương đêm trước.

* Luận điểm 2: Hình ảnh con người xứ Huế đôn hậu, dịu dàng.

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

- “lá trúc che ngang mặt chữ điền”: hình ảnh con người hiện lên với nét đôn hậu, dịu dàng.

-> Hình ảnh con người bất ngờ xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi sáng thơ mộng khiến bức tranh cuộc sống thêm nồng ấm qua giọng thơ êm dịu gợi trong lòng người đọc một cảm giác bình yên khi đứng trước bức tranh thơ độc đáo ấy.

=> Nét đẹp hài hòa giữa cảnh và người đã làm cho xứ Huế trở nên thơ mộng và thi vị hơn.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Ngôn ngữ điêu luyện

- Bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng

- Câu hỏi tu từ, điệp từ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác...

3. Kết bài:

- Nêu cảm nhận của em về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Dàn ý số 4

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

- Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

2. Thân bài

a. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ

* Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

- Câu hỏi có hai cách hiểu:

  • Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
  • Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình

=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.

* Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

- Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.

- Điệp ngữ: “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.

* Câu 3:

- Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.

- “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.

* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền

- Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:

- Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?

=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

b. Bức tranh sông nước trong đêm trăng

* Câu 5 và câu 6:

- Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.

- Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.

- Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

* Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.

=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.

=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.

c. Tâm trạng của nhà thơ

- Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.

- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

- Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

3. Kết bài

- Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Bài phân tích mẫu

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 1

Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng. Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia ly, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 2

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời.

Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn nắng hàng cau" và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã "vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng "mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lý. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lý, trái tự nhiên.

"Gió theo lối gió, mây đường mây"

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lý mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói bóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

"Mơ khách đường xa, khách đường xa"

Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

"Người đã đi rồi khôn níu lại

Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi đến dại khờ".

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hy vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao:

"Áo em trắng quá nhìn không ra"

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hy vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao... Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.

Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lý nhân sinh:

"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"

Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

"Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu:

"Ai biết tình ai có đậm đà?"

Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 3

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mặc Tử. Một sự nghịch lý, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biện pháp điệp từ “nắng". Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố. Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai" gợi lên sự tò mò, hiếu kỳ vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mặc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác. Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này. “Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh “sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.

Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền. Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng". Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng. Tất cả đều là một ẩn số!

Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.

Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mặc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ. Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 4

Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là "Đây thôn Vĩ Dạ"- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.

Câu hỏi tu từ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng đằng sau đó là lời mời ân cần và đầy chân thành: "Sao anh không về chơi". Ở đây tác giả không dùng từ "thăm" mà lại dùng từ "chơi" đủ để thấy sự thân thiết, chân thành, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh "nắng hàng cau" là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương của mình. Vì lòng người mang sau bi nên thiên nhiên cũng vương buồn. Dòng sông nước vẫn chảy mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?

Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm đà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 5

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..."

(Bẽn lẽn)

"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu"

(Hãy nhập hồn em)

"Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".

(Đêm không ngủ)

Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng... Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai biết hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" như Hàn Mạc Tử.

"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc... mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;

"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".

Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông

Hương - Da thơm là phấn, má hường là son...". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?

"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"

"Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.

Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?''. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.

"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 6

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ và thánh thiện. Những lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Đến với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòe cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên .

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 7

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.

Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.

Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.

“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa... khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.

Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 8

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.

Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.

Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc’’.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.

Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.

Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 9

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.

Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện như thế nào.

Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.

Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc - một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.

Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.

Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 10

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò. ”

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mặc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biện pháp điệp từ “nắng". Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố.

Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới.

Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai" gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó.

Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mặc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt" khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng.

Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây.

Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác.

Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này.

“Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh “sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng.

Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang. Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở.

Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền.

Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng".

Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng.

Tất cả đều là một ẩn số!Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mặc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ.

Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 11

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn nắng hàng cau" và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã "vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng "mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. "Gió theo lối gió, mây đường mây".

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói bóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

"Mơ khách đường xa, khách đường xa" Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

"Người đã đi rồi không níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao: "Áo em trắng quá nhìn không ra".

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao...

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: "Ai biết tình ai có đậm đà?".

Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 12

Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một "Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc". Cái "lạ" của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái "lạ" mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ.

Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên "Đây thôn Vĩ Dạ", trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao...

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ...

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu
Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là "không về" chứ không phải "chưa về", là "về chơi" chứ không phải "về thăm". Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm.

"Chưa về" nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, "về thăm" nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải "nắng ửng" trong làn khói mơ tan, không phải "nắng chang chang" dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ "nắng mới", không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.

Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới. Cái "mượt" mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái "ngọc" mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mành trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương...

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.

Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: "buồn thiu". Hai chữ "buồn thiu" đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:

Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?

Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:

Nước biếc non xanh thành gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.

Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải "trăng vàng trăng ngọc", "trăng nằm sóng soãi", mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòe trong trăng.

Tất cả ngập một màu trắng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ "kịp" và câu hỏi đầy tội nghiệp kia.

Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu - đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Chữ "mơ" đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi "khách đường xa" đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhạt, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: "Ai biết tình ai có đậm đà?", ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời.

Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không "kì dị" như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với những câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, "Đây thôn Vĩ Dạ" xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

"Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử". Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 13

Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn.

Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.

Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.

Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.

Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.

Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho "Đây thôn Vĩ Dạ" sương khói hơn, huyền bí hơn.

"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 14

Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.

Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.

Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Chữ "kịp" được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”

Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.

Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 15

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xử Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Da”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế

Sao anh không về chơ thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế. Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Giữa khung cảnh thiên nhiễn trừ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu. Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng

Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động. Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế. “Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu c, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đã?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa……….khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu nắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, máu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế. Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiên, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng cảu chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?” Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phấp sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyết đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 16

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn nắng hàng cau" và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã "vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng "mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. "Gió theo lối gió, mây đường mây".

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói bóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

"Mơ khách đường xa, khách đường xa" Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

"Người đã đi rồi không níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao: "Áo em trắng quá nhìn không ra".

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao...

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: "Ai biết tình ai có đậm đà?".

Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 17

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thường hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điểu đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 18

Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”

(Bẽn lẽn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Nhà thơ còn nói về thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới hư ảo, diệu kì. Thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số vở kịch thơ đặc sắc. Thơ ông như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Không ai hiểu rõ về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về xứ Huế đẹp và chất thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mặc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong “Tuyển tập thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đa tình và đáng yêu. Hàn Mặc Tử viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương, nồng nàn nên thơ, lung linh trong sáng và huyền ảo. Đoạn thơ thể hiện một nỗi bâng khuâng, một niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ đa tình, có nhiều nhân duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ đầu thật “ngọt ngào” như một lời mời gọi vừa hân hoan ngày đoàn tụ vừa nhẹ nhàng trách móc người thương về bao nhớ nhung, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có rất xa. Những cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ đẹp với nỗi nhớ da diết. Bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nhắc đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp ở thôn Vĩ. Nhìn từ xa, nhà thơ đang say sưa ngắm những ngọn cau, những tàu cau lấp lánh dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào, như vẫy gọi.

Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy thán phục khi đứng trước một vườn Vĩ Dạ xanh mướt: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mơn mởn, non mơn mởn, óng ả dưới ánh mai hồng trông thật “mượt” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu điều hòa, người dân cần mẫn chăm bón mới có màu “xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rực rỡ, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã viết: “Đổ trời xanh ngọc bích qua kẽ lá…” (“Thơ tình”). Hai chữ “vườn ai” gợi bao bất ngờ xen lẫn xót xa. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ bên khóm trúc trong vườn xuân: “Lá trúc che mặt phông”. Mặt trái xoan, mặt phấn son, mặt búp sen là vẻ đẹp của một mỹ nhân. Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, vuông vức và phúc hậu. “Lá trúc giăng ngang” là nét vẽ truyền thần đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về tre và những cô gái. Khóm tre như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang chớm nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với một cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người ở Vĩ Dạ thật hiền hòa, thân thiện và dễ mến.

Vĩ Dạ là một ngôi làng nằm bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với con đò thơ mộng, vườn cây xanh tươi bốn mùa, hoa trái xum xuê. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng cau, rặng tre, nơi thường cất lên câu hát “Nam Ai, Nam Bình” qua tiếng đàn tranh, tiếng đàn tam thập lục huyền ảo, du dương. Đây thôn Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã tặng Vĩ Dạ bài thơ đẹp nhất bằng tất cả tình cảm yêu thương của mình. Đã bao năm rồi Huế và Vĩ Dạ xa cách. Tuy nhiên, cảnh vật và con người thôn Vĩ vẫn được nhà thơ bao dung, càng trở nên lung linh huyền ảo, thể hiện niềm mong mỏi tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. Bức tranh tâm trạng đã khéo léo thể hiện bức tranh thơ mộng, hữu tình của thôn Vĩ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Câu 5, 6 là những hình ảnh miêu tả gió, mây, sông và hoa (hoa ngô đồng). Giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Nghệ thuật tương phản tạo nên một khung cảnh hài hòa, cân đối và sinh động. Gió và mây lùi xa như tình yêu của nhà thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. Dòng sông Hương êm đềm trôi lặng lẽ, trong tâm tưởng nhà thơ trở nên “buồn bã” và đượm buồn. Những bông hoa ngô đung đưa, nhẹ nhàng đung đưa trong gió nhẹ. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được miêu tả thật tinh tế! Những ám chỉ lôi cuốn gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. Ngoại cảnh bao la ngăn cách như trái tim, như tâm tư nhà thơ;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ màng trên sông trăng. Dòng sông Hương quê tôi trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã làm nên bài thơ hay về sông Hương với những con thuyền dưới trăng. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng chứa đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại một câu thơ thất ngôn độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen, vừa xa lạ. Chất thơ kỳ ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là ở những chất liệu thơ ấy. Câu thơ gợi một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, nhẹ nhàng, thơ mộng và có chút buồn man mác. Ở đây, bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm đẫm một nỗi buồn cô đơn của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về những cô gái sông Hương: “Những cô gái sông nước”

Hương – Da thơm là phấn, má hồng là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, sáng chiều sương mù mịt. Khói lam mờ áo trắng em nhận không ra dáng người (người) hình ảnh) khi ngắm nhìn. Câu thơ chập chờn, thanh khiết, kín đáo và duyên dáng Gần mà xa mà thực. Mà thực mà mơ. Câu thơ rung động buồn ta biết Hàn Mặc Tử đã từng có một người đẹp mối tình ngang trái với một cô gái trẻ Huế mang tên một loài hoa đẹp, phải chăng nhà thơ đang nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” Những ám chỉ, luyến láy ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, êm dịu, mênh mang. Khoảng cách và nỗi buồn chia ly dường như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc càng thêm thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa tình nhưng kém may mắn, từng say đắm mối tình đơn phương mà suốt đời phải sống trong cô đơn, bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần từ “ai” xuất hiện đều mơ hồ và đầy ám ảnh: “Vườn ai sao xanh như ngọc?” – “Thuyền ai cập bến trên sông trăng kia?” – “Ai biết tình ai có giàu không?” Người mà nhà thơ nói đến là một người đã đi xa, trong nỗi nhớ nhung, tuyệt vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu đơn côi. niềm hy vọng mong manh mà tha thiết như có phai mờ sương khói ?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn bã, ngỡ ngàng và dửng dưng… biết bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, thất ngôn tứ tuyệt. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Màu xanh ngọc bích vườn ai, con đò cập bến sông trăng, màu trắng áo em như dẫn hồn anh về thôn Vĩ Dạ khói lửa một thời đã xa, tìm bóng giai nhân, để nhớ nhà. Có tài thơ, đa tình nhưng bạc mệnh. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đọng lại mãi trong lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng tôi.

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 19

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài cổ. Theo những tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Nha điền bạ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ điền trang Quy Nhơn, người làng Vĩ, Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử dồn hết vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã tính chuyện lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử bị bệnh phong năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc, trong đó có ảnh phong cảnh xứ Huế, có sông, có thuyền, có bến có trăng và nhiều cảnh đẹp khác. hàng cau cao kèm theo lời Hoàng Cúc an ủi nhà thơ. Tấm bưu ảnh đã đánh thức cảm xúc của nhà thơ nên mới có bài thơ tuyệt vời này.

Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ như một lời trách móc nhẹ nhàng pha chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là lời mời gọi tha thiết du khách hãy đến thưởng ngoạn cảnh đẹp “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để “ngắm mặt trời mới mọc”. Nhà thơ nhắc đến cây cau trước tiên bởi cây cau là một loài cây thanh cao, dáng đẹp, thân thẳng, tán lá xanh mướt, gợi lên lòng trung nghĩa, ngay thẳng. Hình ảnh cây cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, đó là “Nắng lên, nắng mới lên”. Từ “nắng” gợi cho ta hình ảnh ánh nắng ban mai, biểu tượng của sức sống và niềm vui lan tỏa khắp trái đất. Trong ánh ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lấp lánh như vươn mình lên để hấp thụ ánh vàng rực rỡ.

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba như một tiếng kêu thích thú thể hiện sự ngạc nhiên và khâm phục. Cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái, được bàn tay khéo léo chăm sóc, được tắm mưa gió thường xuyên nên bóng mượt, lấp lánh như viên ngọc bích dưới nắng mai. Hình ảnh so sánh của tác giả trong đoạn thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài ba.

Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh sân vườn của một làng quê xứ Huế vừa thân thuộc, vừa bình dị, vừa thơ mộng độc đáo. Ngắm nhìn khu vườn xứ Huế trong “nắng mới” thật thanh thản. Nhưng khung cảnh Vĩ Dạ bồng bềnh sống dậy, khi xuất hiện bóng người: “Lá tre che mặt phông”. Mặt chữ điền thường gợi vẻ đẹp nhân hậu. trang trọng, quý phái, trong khi lá trúc gợi dáng người mảnh khảnh, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa hiện thực: thấp thoáng sau rặng tre có khuôn mặt rất hiền của ai đó hình như đang dõi theo khách từ xa, còn mang ý nghĩa tượng trưng, cách điệu.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, người cao thượng, nhân hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp kín đáo, nhẹ nhàng. Nhờ vậy mà câu thơ đã làm nổi lên cái hồn của miệt vườn xứ Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết hết sức thân thuộc, bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một bức tranh thôn quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, sự hài hòa giữa cảnh và người. Bài thơ khơi dậy trong tâm hồn người đọc bao tình cảm đối với quê hương, làng quê Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của xứ Huế: sông Hương và vẻ đẹp trầm mặc, trầm mặc của Vĩ Dạ nói riêng và xứ Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về Huế, về núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được tâm hồn, nhịp điệu rất Huế. Khung cảnh xứ Huế dưới ngòi bút Hàn Mặc Tử có sông, có bờ thiếp, có gió, có mây, có thuyền ai đậu dưới trăng bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh yên bình, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai dòng tả cảnh nhưng thấm đượm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly, buồn man mác. Phải chăng tình yêu đơn phương, không phút gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia tay, nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà buồn chia ly? Vì tôi đang trong tâm trạng buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng nay lại đứt đoạn, như không gặp gỡ. Các từ “gió”, “mây” đã thể hiện điều đó. Và cả dòng nước vô tri vô giác cũng trở nên buồn bã cùng với những bông ngô đồng khẽ “rung rinh”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả nhịp điệu của cảnh. Đó là nhịp điệu uyển chuyển, bình dị, một nét trầm tư rất đặc trưng mà không nơi nào khác ở Huế có được. Hai câu thơ với nhịp điệu chậm rãi cũng đã thể hiện thành công cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, lấp đầy vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ trong mơ sông mới là sông trăng và thuyền chở trăng. Ở đây, Hàn Mặc Tử là một người có đôi mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật, sự thật biến thành một giấc mơ, nhìn vào giấc mơ, nó sẽ biến thành một con hạc huyền diệu. Thơ anh Tư tao nhã quá! Ngọt ngào cả người” (Bích Khê).

Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên. Mặt trăng còn tượng trưng cho hạnh phúc bình yên. Chính vì vậy, hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong lòng người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ, thánh thiện. Lời thơ dậy lên như một câu hỏi vô vọng. Hai dòng khổ thơ sau thể hiện niềm khao khát được gặp mặt đồng thời cũng thể hiện sự xao xuyến. mô phỏng sự chậm trễ. Chỉ một từ “đúng giờ” câu thơ cuối đã nói lên tất cả.

Đến khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình yêu cuộc đời nồng nàn nhưng vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Cụm từ “lữ khách phương xa” vừa diễn tả nỗi nhớ nhung da diết, vừa diễn tả sự xa cách của một mối tình đơn phương vô vọng. Vì thế, “mộng khách đường xa” tác giả chỉ thấy “chiếc áo” mà “chẳng thấy đâu”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay cô thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ, khiến tác giả có một cảm giác bâng khuâng thực sự? Chỉ biết rằng đây là hình ảnh vừa rất gần gũi, vừa tha thiết, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách thời gian, không gian và khói lửa của một tình yêu không hẹn ước “Áo em trắng quá nhìn không thấy” là một câu thơ khá hay. đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh Huế và cũng là màu gợi nên sự trong trắng tinh khôi rất phù hợp với cô gái trong mộng. Màu trắng bao trùm cả không gian, làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra hơn khi ẩn mình trong sương khói hư ảo của xứ Huế nắng mưa khói sương của một mối tình đơn phương. Vậy tình cảm của cô gái thôn Vĩ bao giờ mới bền chặt? “Có ai biết chữ đậm không?”.

Trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong sáng để hướng về một miền quê thân thiết và một tình yêu mộng mơ để tạo nên một “viên ngọc thơ ngàn năm tuyệt vời, rực rỡ” Chế Lan Viên.

Tất nhiên, bài thơ có nguồn gốc và cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới của cái cụ thể, đạt đến tầm khái quát nghệ thuật cao hướng tới cuộc sống rộng lớn.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là một lời tỏ tình nồng nàn, một lời trăng trối. Mối tình cuối của nhà thơ Hàn Mặc Tử nói về tình yêu dày vò và quá sâu đậm với cuộc đời này.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 20

Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc đến một nghệ sĩ tài hoa và kém may mắn. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ viết về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng lòng thiết tha với quê hương nhưng cũng đầy u uất, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những vần thơ chan chứa tình Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, như một lời trách móc nhẹ nhàng, không chút giận hờn của một cô gái Huế đối với chàng trai mà mình thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong chờ, lời trách móc nhẹ nhàng sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Cũng là một lời mời gọi “ngọt ngào”, thôn Vĩ hiện ra, vẻ đẹp không hùng vĩ như cảnh “đèo Nàng” hay mang nét bí ẩn không nơi nào có, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất xứ Huế.

Vẻ đẹp được miêu tả từ “ánh nắng mới” trong ánh nắng ban mai, thứ ánh sáng dịu dàng, tinh khiết buổi sớm chiếu xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón những tia nắng đầu tiên. Vạn vật như được bao phủ bởi ánh sáng, một thứ ánh sáng thuần khiết, dưới ánh sáng ấy vạn vật như bừng lên sức sống căng tràn.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khu vườn hiện ra trước mắt, chỉ cần nhắm mắt lại ta cũng cảm nhận được màu xanh mượt mà, óng ả dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để gợi tả sức sống tươi mới, nhựa sống của cây cối đâm chồi nảy lộc.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đó “Lá tre che mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ khuôn mặt hiền lành, đôn hậu.

Con người chập chờn, ẩn hiện sau những “Lá trúc” mơ màng, hư ảo. Phải chăng đây là người về thăm thôn Vĩ, người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm bên dòng sông Hương êm đềm, xinh đẹp với những vườn cây xanh mướt, nằm bên bờ sông Hương vẻ đẹp hiện lên trong nỗi buồn:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chất chứa nỗi lòng của nhà thơ. Người ta thường nói “gió cuốn mây bay”, gió và mây đi cùng một hướng. Vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử “gió theo gió, mây theo mây”. Có sự chia ly đến tận tim. Nước sông Hương cũng đượm buồn man mác “hoa ngô” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự ngăn cách, rung chuyển.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mình yêu, sự tiếc nuối khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường xuất hiện trong bài thơ “thuyền trăng gió trăng không đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh trữ tình ấy để nói lên cảm xúc của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng ấy”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của nhà thơ không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “dòng sông trăng” khiến cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Ai ngờ “dòng suối buồn” vì “bông ngô đồng” bay trong nắng chiều lại có thể trở thành “dòng sông trăng” thơ mộng đến thế.

“Thuyền ai” là thuyền của ai xa lạ, hay là thuyền chở người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có kịp đưa trăng về kịp đêm nay”. Câu hỏi mà không có câu trả lời, phải chăng là sự tiếc nuối, hay sự thất bại trong tình yêu, “đúng hẹn” làm cho câu thơ trở nên gấp gáp hơn, gấp gáp hơn, dường như đang cố chạy đua cho kịp với mong đợi, hay với tình yêu mà nhà thơ. trân trọng?

Nhưng tất cả những ưu tư, ký ức ấy chỉ còn trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như ánh trăng dưới sông Hương. Thực tế chỉ là một giấc mơ tàn nhẫn:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Nhà thơ đã sử dụng phép điệp ngữ “khách phương xa… khách phương xa” làm cho giọng thơ sâu lắng, luyến tiếc trong nhớ nhung, bùi ngùi trong hiện tại. Mọi thứ dường như mờ đi bởi màu áo trắng, màu trong sáng tinh khôi ấy hiện ra dưới ánh nắng nhẹ, màu tượng trưng cho màu áo đồng phục của nữ sinh Huế.

Và ở bài thơ này nó cũng mang màu sắc hoài niệm của chính tác giả. Dưới làn sương sớm, hình ảnh “khói sương” trắng xóa như mờ đi, như ẩn, như hiện, trở nên xa xăm, khó nắm bắt. Giữa khoảng trống ấy, câu thơ cuối như một nỗi thất vọng của chính tác giả “Biết tình ai có giàu không?”.

Nỗi thất vọng về một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời bài hát phảng phất nét u sầu. Bài thơ kết thúc trong nỗi buồn. Nhà thơ không nói với ai, mà chỉ nói với chính lòng mình, băn khoăn không biết cảm xúc kia là “đậm đà” hay chỉ là hư ảo như tà áo trắng trong sương sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục ý chí sống của chính tác giả, và tài năng của một người nghệ sĩ giàu lòng yêu nước.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 21

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã viết bằng rất nhiều tâm huyết. Đoạn thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương xứ Huế mà tác giả đã từng công tác tại đây.

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) quê ở Bình Định nhưng có một thời gian học ở Huế và làm việc tại đây. Với anh, Huế là quê hương thứ hai và cũng là nơi để lại cho anh nhiều dấu ấn, kỷ niệm nhất. Qua việc phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp ta hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là những lời ngọt ngào mà tha thiết của cô gái dành cho chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một ngôi làng xinh đẹp nằm bên dòng sông Huế thơ mộng. Thôn Vĩ hay còn gọi là Đây thôn Vĩ Dạ mà tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng là nơi tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đó là những lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai rằng hãy về Đây chơi thôn Vĩ Dạ vì nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp và bí ẩn mà lâu rồi chàng trai chưa được đến thăm. Khung cảnh nơi đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh bình dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây, cảnh vật có hai màu chủ đạo là xanh và nắng vàng. Cảnh quan nơi đây có những hàng cau cao vút, xanh mướt một màu. Hình ảnh cây cau mọc thành hàng, vào mùa ra hoa thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm, đó là lý do cây cau không thể thiếu ở Huế. Nếu đã từng đến Huế, bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp mê hồn của người dân nơi đây.

Ở Huế, bạn cũng sẽ thấy những sân cỏ rộng rãi với những cây cau bên trong. Một không gian tràn ngập sắc xanh và điểm tô bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên thơ mộng, trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả nói: “thật mát” một từ cho thấy sự tươi tốt, màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh còn đọng trên cây cỏ rồi ánh nắng nhẹ nhàng chiếu vào tạo nên những viên ngọc trai được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc”.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến người đọc liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một bức tranh nhiều màu sắc mà tác giả đã vẽ nên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ trở nên trầm lắng, thoáng chút buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai thứ gió và mây khi nhắc đến bao giờ cũng gợi cho ta sự yêu thương. Mây và gió luôn không thể tách rời, tượng trưng cho tình cảm lứa đôi gắn bó, thân thiết. Nhưng ở đây, tác giả lại cho thấy điều ngược lại đó là sự ngăn cách, xa cách giữa gió và mây, mỗi người đi về một hướng. Phải chăng đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với người con gái Hoàng Kim Cúc? Họ xa nhau một thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ giúp công việc cho cha.

Câu thơ thứ hai trong khổ thơ chính miêu tả cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân xứ Huế chậm rãi, yên bình như tả dòng nước chảy chầm chậm, chầm chậm. Những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng khi gió thổi.

Câu thơ tiếp theo là một phép gợi nhớ khiến người đọc liên tưởng nhiều nhất đến cảnh có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và soi bóng cả một dòng sông khi ánh trăng soi bóng một con thuyền. Đêm nay thuyền chở trăng về kịp hay lỡ làng? Đây là cách nói ẩn ý của tác giả rằng chuyện tình của mình sẽ còn có thể quay lại và yêu thêm lần nữa hay hai người sẽ lạc mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối là lời thốt ra từ đáy lòng của tác giả và cũng là những suy ngẫm của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu trong khổ thơ cuối gây ấn tượng cho người đọc bởi sự lặp lại từ ngữ hai lần khách đường xa càng gợi thêm khoảng cách. Áo cô gái trắng đến nỗi tác giả không nhận ra nữa vì cô gái quá đẹp khiến tác giả không thể nhận ra người con gái mình đem lòng yêu. Sương khói dày đặc làm mờ hình ảnh của một người và tác giả tự hỏi liệu cô ấy có còn yêu và có tình cảm mãnh liệt với mình không? Câu thơ cuối là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phần phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta sẽ biết đây là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử viết trước khi qua đời vì bệnh phong. Qua bài thơ ta có thể hình dung được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người ở mảnh đất Huế xinh đẹp, nơi từng là cố đô của nước ta. Đoạn thơ cũng khắc họa tình yêu chân thành mà nhà thơ dành cho người con gái Huế thật đậm đà và ngọt ngào!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 22

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho thế gian. Đây là những bài thơ ngọt ngào và mát mẻ. Trước khi viết bài thơ, nhà thơ mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ da diết, đau đáu với quê hương Vĩ Dạ, nơi đã trải qua biết bao thời gian tươi đẹp ở đây.

Huế là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông còn là nhân sĩ, sau chuyển vào Sài Gòn viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ với nhiều cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp không kém. Huế cũng là vùng đất đặc trưng bởi nhiều cau mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nhắc đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là một lời trách mắng nhẹ nhàng êm ái mà ai đọc qua cũng đoán được đó là lời trách móc của một cô gái dành cho một chàng trai. Nhưng nghe câu nói thấy êm tai nửa hờn dỗi quá! Cô gái trách chàng trai sao không về làng xem cau mới lớn và được nắng “đổ” vào.

Những cây cau cao vút lá xanh mướt trông thật đẹp mắt nay đã được nắng vàng bao phủ! Ôi, thật là một bức tranh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng tuyệt đẹp. Chưa dừng lại ở đó, khi đọc hai câu thơ tiếp theo, ta còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoàn mỹ đến khó tin:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu bạn đã từng đến Huế, bạn sẽ thấy những khu vườn xinh xắn với cỏ và cau mọc bên vườn. Người Huế giản dị lắm, chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc nhưng trữ tình cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật thi vị và đẹp biết bao khi chẳng cần nhà chọc trời hay cao ốc. Xe to, khi vào Huế mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa.

Đường phố đông đúc người đi bộ và người đi xe đạp, không ồn ào cũng không vội vã. Tác giả miêu tả: “Vườn ai xanh như ngọc” là vẻ đẹp của cây cỏ xanh tươi đọng lại bởi sương sớm. Khoảnh khắc ấy đã đẹp, bây giờ lại càng đẹp hơn khi những tia nắng chiếu vào.

Khung cảnh vẫn tráng lệ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Trời mát nên cây cỏ phát triển tươi tốt mà xanh mướt như ngọc bích. Viên ngọc xanh đại diện cho màu xanh lam. Tác giả đã khéo léo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ và màu xanh của ngọc bích. Qua đây ta thấy được óc quan sát tinh tế cũng như tài tình của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Người dân xứ Huế thể hiện vẻ đẹp chân chất, hiền hòa biết bao qua câu thơ: “Lá tre che mặt phông”. Khuôn mặt vuông vức là biểu hiện cho sự nhân từ, vuông vức toát lên sự hiền hòa, nhân hậu của con người nơi đây. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đặc biệt khắc họa rõ nét nhịp sống của người dân xứ Huế chậm rãi mà nhịp nhàng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi ngay cả những bông ngô “buồn bã” cũng di chuyển rất chậm. Câu thơ cũng nhắc ta về khoảng cách giữa gió thổi một chiều và gió thổi một chiều. Phải chăng đó là sự ngăn cách, là đường song song không bao giờ có điểm chung trong tình yêu giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái mà nhà thơ đã thầm yêu năm xưa? .

Và khi đọc câu thơ: “Thuyền ai cập bến sông trăng ấy, có chở trăng về kịp đêm nay?” khiến người đọc có thể hình dung ra một chiếc thuyền nằm trên sông và ở đó có vầng trăng sáng. Con thuyền đi đâu như mang theo cả vầng trăng. Liệu con thuyền có chở trăng ngược thời gian?

Khổ thơ cuối là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái Huế mà anh thầm thương trộm nhớ được diễn tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ thấy một giấc mơ, trong đó có một vị khách lạ chính là người con gái mà ông đem lòng yêu mến. Chiếc áo trắng đến nỗi nhà thơ không còn nhận ra cô gái ấy nữa. Màu áo trắng cũng khiến ta dễ liên tưởng đến tà áo trắng của nữ sinh Huế. Câu thơ được lặp lại từ một người khách phương xa hai lần nữa cho thấy sự sâu xa, xa lạ giữa nhà thơ và nhân vật mà tác giả nhắc đến.

Sương khói đã làm mờ hình ảnh cô gái, khiến tác giả có cảm giác xa cách, khó gần. Tác giả tự hỏi lòng mình: “Biết rằng tình ai giàu?”. Không biết cô gái ấy có còn nhớ và yêu Mặc Tử hay không? Đọc xong bài thơ, tôi có chút chạnh lòng, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đã gửi đơn phương cho một cô gái mà không được đáp lại.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 23

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật với phong cách thơ đặc biệt vừa trẻ trung, lãng mạn vừa buồn đau, tất cả xuất phát từ một cuộc đời có quá nhiều đau thương, cay đắng. của một nghệ sĩ trẻ. Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác tiêu biểu, nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Đoạn thơ mang đậm dấu ấn của tác giả khi hàm chứa những nội dung trong sáng, vô vàn, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc sống, đồng thời bộc lộ những ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của chính mình qua những vần thơ lạ lẫm, phức tạp đan xen giữa thực và những cảnh trong mơ.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đầy bất hạnh cay đắng, khi còn trẻ ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác, đúng vào lúc sự nghiệp của ông đang ở giai đoạn thăng hoa nhất, đặc biệt là đường tình duyên. Hàn Mặc Tử cũng là một người kém may mắn khi phải chịu nhiều đau đớn, dằn vặt. Trong giai đoạn cuối đời, ông về Quy Nhơn chữa bệnh, bất ngờ nhận được tấm bưu ảnh có hình phong cảnh xứ Huế, trên đó có dòng chữ Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc đem lòng yêu. Cái chết thường bỏ lỡ. Chỉ thế thôi đã khơi dậy trong trái tim cô đơn của người nghệ sĩ những cảm xúc hân hoan vui sướng, lòng ông trào dâng cảm xúc nhớ Huế, nhớ một Huế đẹp, đồng thời thổ lộ nỗi lòng. khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến tột độ qua những câu thơ đầu rất trong sáng, trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mở rất dễ thương đậm chất Huế “Sao em không về chơi thôn Vĩ?”, có thể là lời than thở vu vơ của một cô gái đang mong chờ người yêu về thăm. Huế mãi mãi. , đến thăm để thỏa nỗi nhớ nhung, sau đó cũng có thể là lời mời thân tình của một người bạn phương xa, muốn tác giả một lần trở lại Huế, thăm lại cố đô yên bình. Để rồi, sâu thẳm trong câu hỏi bỏ ngỏ ấy, ta dường như cũng nhìn thấu nỗi lòng của tác giả, phải chăng Hàn Mặc Tử cũng đang tự hỏi lòng mình tại sao không trở về quê cũ, bày tỏ sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh của cuộc đời? tai ương của chính mình.

Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử hiện lên với hình ảnh đặc trưng, đó là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là hình ảnh đặc sắc, khái quát và ấn tượng. “Tay cau” có nghĩa là nắng sớm, mặt trời đã lên khá cao, ở mức ấm nhất, chưa oi bức như mặt trời. không bật. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh mướt một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống cũng như sự yên bình, tĩnh lặng nơi làng quê. “Vườn ai xanh như ngọc”, điệp từ “vườn ai” đã mang đến cho bức tranh thiên nhiên sự ấm áp của tình người, bên cạnh hơi ấm của nắng sớm, cảnh vật càng trở nên hài hòa hơn khi có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên .

Những tính từ “mượt mà”, “xanh như ngọc” đều là nét vẽ tài tình, tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về Đây thôn Vĩ Dạ đã khéo léo mở ra bức tranh thiên nhiên dịu dàng. , sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Chính sự non tươi béo ngậy của lá cây, cái mát lành của những giọt sương mai còn đọng lại sau một đêm dài, nhưng dưới ánh mặt trời ấm áp chúng lại tỏa sáng đẹp đẽ như những viên ngọc quý, khiến người ta không khỏi ngỡ ngàng. Đến câu thơ cuối, phong cách thơ Trung Hoa đã thực sự làm rõ và tô đậm vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh đồng quê “Lá tre che mặt chữ điền” lấy tiểu cảnh, cắt ngang làm cảnh. lá trúc để làm nổi bật gương mặt người phụ nữ đảm đang, nhân hậu, dịu dàng và thông minh, đó cũng có thể là bóng hình mà Hàn Mặc Tử thường nhớ nhung, một con người mang nét đẹp cổ kính. cuốn sách có giá trị và tâm hồn, đại diện cho một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm mong chờ.

Nếu như ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử nhìn cuộc sống và con người với tinh thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hi vọng với bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì ở khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc lại được mở rộng. Cảm xúc của tác giả thay đổi nhanh chóng với sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, mát mẻ, giản dị, Hàn Mặc Tử lập tức chuyển sang cảnh đêm tối với hình ảnh dòng sông thăm thẳm lạnh lùng thể hiện sự trống vắng. Nỗi cô đơn đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió cuốn theo gió mây cuốn mây đi” là một hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không hẹn ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn bó, gió thổi mây đi, tưởng như dính với nhau như hình với bóng, vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt. , hai nơi dường như không thể tách rời. ít tiếp xúc. Phải chăng đây là một ẩn ý cho mối tình của anh với Kim Cúc, hai người nay như cách biệt nhau, mai là âm dương cách biệt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng gợi cho tác giả mối liên hệ với thế giới, dường như lúc này ông cũng bắt đầu cảm thấy mình không còn bao nhiêu thời gian nữa, như thể cuộc đời là dành cho ông vậy. ngày càng xa, cuộc sống trần gian của anh ta có thể không còn bao lâu nữa. Chính những suy nghĩ và thực tại đã giày vò trái tim Hàn Mặc Tử mới vừa được thắp lên niềm hy vọng. Một lá bài khiến anh hạnh phúc, tưởng chừng như anh đã thoát khỏi sự u ám, tăm tối của cuộc đời, nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và chính anh buộc phải tỉnh ngộ, trở về. với thực tế đau lòng.

Đến câu thơ tiếp theo “Nước buồn hoa rụng”, đúng với câu “Cảnh buồn bao giờ vui” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn của số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, Đã đi qua bao thăng trầm của lịch sử, dường như anh nhìn thấy dòng nước ấy cũng như hiểu được nỗi buồn của mình, buồn lặng lẽ, một nỗi buồn âm thầm không thể bày tỏ cùng ai, lẻ loi, lạc lõng không một bóng người. người chọn bạn. Hình ảnh “hoa ngô đẻ” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, bông ngô là loài hoa không màu, không hương, thoang thoảng, chóng héo. Dường như đó là hình ảnh của Hàn Mặc Tử về cuối đời, chỉ héo úa mặc cho gió đung đưa mà không thể chống lại số phận khiến người ta xót xa cho cuộc đời nghệ sĩ. số phận, cũng như nỗi đau mà ông phải chịu đựng suốt cuộc đời.

Trong lúc buồn bã, tuyệt vọng và cô đơn nhất, Hàn Mặc Tử lại nhớ đến vầng trăng, người bạn tri kỷ duy nhất có thể tâm sự và thấu hiểu mình. Cảnh bến thuyền, ánh trăng vằng vặc là một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ điển, tả cảnh dòng sông yên ả, phẳng lặng, có phần cô quạnh. Đến thơ Hàn Mặc Tử, khung cảnh ấy còn độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai cập bến sông trăng kia/ Có chở trăng về kịp đêm nay?”, một câu hỏi đầy tâm tình, trung dung. của một cảnh sông nước. nước mênh mông, ánh trăng trải dài trên mặt nước, có con thuyền nằm lặng lẽ, thật nên thơ và trữ tình biết bao. Lòng Hàn Mặc Tử chẳng mấy bình yên, người vội hỏi thuyền ai neo đậu, kẻ vội hỏi có đưa trăng về kịp, đưa tri kỷ về có kịp. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử vội vàng, lo lắng, đầy hoang mang, sợ rằng mình không còn bao nhiêu thời gian, không còn đợi được ánh trăng rọi vào lòng. Càng đọc, càng hiểu sâu nỗi lòng nhà thơ, càng biết nỗi ưu tư, cô đơn, bất lực của ông, càng thấy xót xa cho một kiếp người đau thương, khi cả tình yêu và cuộc đời đang nằm trước mặt. ngoài tầm với. Tất cả nỗi đau trong bài thơ và nỗi tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ rõ nét tâm hồn khao khát sống, khao khát yêu thương dù trong lòng tác giả đã nhiều lần buông xuôi. , chấp nhận số phận, nhưng chỉ cần một chút niềm tin, trái tim ấy lại rạo rực và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Mặc dù mọi thứ giống như một pháo hoa rực rỡ và đẹp đẽ, nó nở rộ và nhanh chóng tàn lụi.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Từ cõi thực, Hàn Mặc Tử tiến vào cõi mộng, thể hiện rõ nét thơ ông phức tạp, khó hiểu nhất trong làng thơ Việt Nam đương đại. “Giấc khách phương xa, khách phương xa”, cũng là một câu thơ mơ hồ, không rõ ràng, “lữ khách phương xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh thêm diện mạo của nhân vật này, nhưng lại càng nổi bật hơn. thậm chí còn mơ hồ hơn. Vị khách ấy đến từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ mặt, chỉ biết họ ngày càng xa dần, không bao giờ trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong tình yêu dành cho Kim Cúc. Huế, cũng như sự tồn tại của anh trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh và mờ mịt. Tác giả đã xa nhân gian, dần trở thành khách lạ, đi một chặng đường ngắn chừng 28 năm rồi ra đi không tiếng động, không màu sắc, sự liên tưởng khiến người ta vừa ám ảnh vừa xót xa. cho cuộc đời nhà thơ.

Đến câu thơ tiếp theo “Áo em trắng nhìn không thấy” là hình bóng thấp thoáng của người con gái anh yêu trong tiềm thức, cho thấy khoảng cách ngày càng xa giữa anh và nàng, đó không chỉ là khoảng cách địa lý. lý trí, mà còn là khoảng cách tinh thần, sự ngăn cách không thể thay đổi giữa sinh và tử. Chính những khoảng cách ấy đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, hình bóng người con gái năm xưa ngày càng nhòe đi, anh không nhìn rõ, không thể chạm vào, muốn mà không thể chạm vào. Để giải thích cho sự mờ mịt, mông lung của nhân vật “em”, tác giả viết “Ở đây sương khói”, để giảm bớt khoảng cách, dựa vào nguyên nhân xứ Huế sương mù khiến anh không nhìn rõ mà nhấn mạnh sự mông lung, sự bế tắc, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính đôi tay mình không thể vén màn sương tìm bóng hình tình yêu. bị thương, không chống nổi số mệnh không chịu chết.

Nỗi đau đớn, mặc cảm của số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu được nỗi lòng của Kim Cúc, cũng như không thể bứt mình ra khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước hoàn cảnh đó ông chỉ có thể thốt lên “Biết đâu tình người giàu sang”. , nó như một lời nhắn gửi cho người con gái xa xứ rằng liệu nàng có còn nhớ đến chàng trai đáng thương này không, đồng thời cũng là một lời trách móc đau đớn khi trái tim chàng đã sợ hãi chàng Kim. Cúc đã không còn hứng thú với phần tình cảm này từ lâu. Cuối cùng, đó vẫn có thể là một thông điệp tình yêu anh muốn gửi một cách thật tế nhị và kín đáo vì anh biết mình không còn sống được bao lâu với cô gái Huế, anh muốn cô biết tình cảm của mình, và cũng muốn cô không để. Biết đâu, sự phức tạp và mâu thuẫn đó là do một tâm hồn mang quá nhiều vết thương, đồng thời đang tiến dần đến những ngày cuối cùng của cuộc đời trần thế, chính vì thế không thể quá tin tưởng, hay gieo rắc hy vọng, yêu thương cho một ai khác. Thà rằng một mình ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy trong suốt quãng đời ngắn ngủi còn lại.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc nhất trong đời thơ Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều cảm xúc phong phú. thể hiện trong tranh thiên nhiên từ sáng sớm đến chiều tối, từ cảnh thực đến cảnh mộng. Bộc lộ tài năng sáng tạo, cũng như một tâm hồn dù phải chịu nhiều đau thương, bất hạnh nhưng Hàn Mặc Tử vẫn vẹn nguyên niềm yêu đời, khát khao hạnh phúc, yêu thương bình dị. kỳ lạ, mặc dù điều đó đối với nghệ sĩ là quá xa vời.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 24

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút “tài hoa” nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là một bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong lành, thuần khiết của xứ Huế với bức tranh của một cái tôi yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người nhưng đầy lo toan, trăn trở. trở lại.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời quở trách nhẹ nhàng và như một lời mời tha thiết của người con gái Huế. Một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đằng sau đó là một lời mời đầy ân cần và chân thành: “Sao anh không vào chơi”. Ở đây, tác giả không dùng từ “thăm” mà dùng từ “chơi” đủ thấy sự thân tình, chân chất, giản dị, gợi cảm giác thân thiết, gần gũi. Và hình như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn, tự trách mình sao đã quá lâu không trở về chốn xưa, để người xưa nay chỉ còn lại những nuối tiếc, trăn trở trong cơn bạo bệnh. . Đoạn thơ chất chứa bao niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng câu chữ thơ, một bức tranh Vĩ Dạ lung linh, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình yêu đôi lứa. Trong thơ Hàn Mặc Tử, câu văn gắn liền với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là một hình ảnh đẹp gợi sự tinh khiết, trong trẻo của những tia nắng ban mai. Màu của cây cau là một màu rất mới mà trước Hàn Mặc Tử chưa nhà thơ nào có thể gợi ra được. Những giàn cau được bao phủ bởi nắng mới, nắng hòa với những giọt sương đọng trên lá tạo nên vẻ lung linh, duyên dáng. Thiên nhiên trở nên thanh thản, trong trẻo lạ thường, không gian trở nên cao ráo, rộng rãi. Ánh nắng của những cây cau làm bừng sáng cả một khu vườn thơ mộng và hữu tình.

Xa xa là bóng cây cau, khi lại gần khu vườn càng đẹp và tươi mát hơn. Có cây khen xanh tươi, xanh trong, xanh mượt, xanh mướt:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như sự ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hóa được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mượt” gợi màu xanh, ngọc bích, sắc xuân đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà bằng cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã gợi lên bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, sinh động và cao quý.

Cảnh thôn Vĩ càng trở nên hài hòa với dáng người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cách nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e lệ, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt hiền từ nhân hậu đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ thêm sống động khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh dòng sông êm đềm, mang theo nỗi buồn và niềm mong ước hão huyền:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, nước, nên thơ, đêm tĩnh mịch gợi nỗi buồn chia li. Cảnh chia ly “gió theo gió, mây đi theo mây” là nỗi mặc cảm của nhà thơ về tình yêu phải xa cách, không thể đi cùng người yêu. Vì lòng người đầy bi ai nên thiên nhiên cũng buồn theo. Dòng sông vẫn chảy nhưng “buồn bã”, gió xao xuyến, những bông ngô đồng trôi vô định trên mặt nước. “Nước buồn hoa ngô nằm” cảnh gợi sự cô đơn, thê lương, sầu muộn. Dòng sông buồn như chính tâm trạng của nhà thơ.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Những vần thơ “Có kịp mang trăng về kịp đêm nay?” chuyển tải một nỗi niềm của nhà thơ, một niềm khao khát tình yêu được cập bến, được ở bên người để tâm sự, giãi bày. Nỗi nhớ mong, nhớ nhung, khao khát mãnh liệt của tâm hồn được cất lên bằng lời thơ bình dị. Có lẽ lúc này tác giả đang lo sợ vì số phận ngắn ngủi của đời mình. Sợ rằng thời gian ngày càng ngắn lại mà lòng người vẫn không khỏi vơi đi nỗi trống trải, cô đơn, buồn tủi. Liệu chiếc thuyền kia có chở vầng trăng hạnh phúc ấy đến với người đàn ông may mắn này?

Hiện thực khắc nghiệt và hiu quạnh khiến tác giả phải đi tìm giấc mơ, nơi anh có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ đượm màu hy vọng, nhà thơ nhìn thấy từ xa có một vị khách trong tà áo dài trắng tinh, ẩn hiện trong làn sương mờ. Cái bóng dường như mờ đi và biến mất trong tích tắc. Sự thuần khiết, cao quý của cô gái trong ảo mộng khiến nhà thơ không khỏi ái ngại:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong bài thơ, tác giả ngập ngừng, lo sợ về một dự cảm vô định. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả nghi ngờ về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có phong phú như tình người của chúng ta không?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi chất chứa những hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp mà buồn, lòng người cũng buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn có một sức sống dồi dào. Bài thơ không chỉ là bức tranh Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng mà còn là bức tranh đẹp của tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát vọng được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 25

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.

Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.

Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này.

Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm.

Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế.

Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa.

Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.

Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.

Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.

Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.

Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.

Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.

Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.

“Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa.

Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ chán chường.

Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.

Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập.

Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra...

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng.

Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.

Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.

Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.

 

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định: "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Quả thật Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới.

- Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí.

- Quê ở làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa.

- Cha của ông mất sớm, Hàn Mặc Tử sống với mẹ ở Quy Nhơn và học trung học ở trường Pe-lơ-ranh ở Huế hai năm.

- Sau đó ông về làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo.

- Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong, về ở tại Quy Nhơn chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa.

- Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.

- Ông làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh như: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh… Ban đầu, ông sáng tác theo khuynh hướng thơ Đường cổ điển, sau đó thì chuyển hẳn sang khuynh hướng lãng mạn.

- Hồn thơ Hàn Mặc Từ nổi bật với những tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.

- Một số nhận định về Hàn Mặc Tử:

“Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

(Chế Lan Viên)

“...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng…” và “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…”

(Hoài Thanh)

- Các tác phẩm chính: Gái quê (1936, thơ), Thơ Điên (1938, sau đổi thành Đau thương), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ (kịch thơ, 1939)...

2. Tác phẩm

2.1. Hoàn cảnh sáng tác

- "Đây thôn Vĩ Dạ" (lúc đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”) được sáng tác năm 1938.

- Bài thơ được in trong tập Thơ Điên (về sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương).

- “Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ mối tình đầu của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ - một thôn nhỏ bên dòng sông Hương (Huế).

- GS. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho biết: “Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ (Huế). Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo (bệnh phong). Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử…”

2.2. Bố cục

- Đoạn 1: vườn Vĩ Dạ lúc ban mai trong tâm tưởng thi sĩ

- Đoạn 2: cảnh sông nước xứ Huế đêm trăng và tâm trạng thi sĩ

- Đoạn 3: hình bóng khách đường xa và nỗi niềm mơ tưởng, hoài nghi

2.3. Phương thức biểu đạt

- Biểu cảm

2.4. Thể thơ

- Thất ngôn

2.5. Giá trị nội dung

- Bài thơ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người

2.6. Giá trị nghệ thuật

- Hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu sức liên tưởng.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 11 hay nhất tại đây: ...

Bình luận (0)

Đăng nhập để có thể bình luận

Chưa có bình luận nào. Bạn hãy là người đầu tiên cho tôi biết ý kiến!