Bệnh phong là một trong những căn bệnh lâu đời nhất trong lịch sử được ghi chép lại. Tài liệu tham khảo bằng văn bản đầu tiên được biết đến về nó là từ khoảng năm 600 trước Công nguyên.
Bệnh phổ biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, bệnh phong cũng đã xuất hiện từ rất lâu. Năm 1959, kết quả cuộc điều tra dịch tễ học ở các tỉnh phía Bắc cho thấy tỉ lệ mắc bệnh là 21/10.000 người. Năm 1976, sau khi thống nhất Bắc Nam, ngành Da Liễu thực hiện nhiều cuộc điều tra và cho thấy tỷ lệ này ở miền Nam là 30 - 40/10.000 người. Bệnh phong ở nước ta được coi là một bệnh xã hội, được Chính phủ quan tâm, đầu tư. Tuy số lượng bệnh nhân phong mới của nước ta hàng năm đã giảm hơn so với trước nhưng tính đến năm 2008, cả nước vẫn còn có 11 tỉnh/thành có tỉ lệ mắc cao hơn 1 trường hợp/100.000 người (tỷ lệ cho phép dưới 1/100.000).
Triệu chứng
Các triệu chứng chính của bệnh phong bao gồm:
- Yếu cơ
- Tê tay và chân
- Tổn thương da
Các vùng da tổn thương thay đổi màu sắc (sáng hơn màu da bình thường hoặc ửng đỏ do viêm) và có rối loạn cảm giác (giảm, mất cảm giác khi chạm vào; cảm giác nóng, lạnh, đau hoặc tê bì, kiến bò). Các tổn thương không lành, thậm chí sau vài tuần.
Nguyên nhân và đường lây truyền bệnh phong
Vi khuẩn Mycobacterium leprae gây bệnh phong. Người ta cho rằng bệnh phong lây lan qua tiếp xúc với chất tiết niêm mạc của người bị bệnh. Điều này thường xảy ra khi một người mắc bệnh phong hắt hơi hoặc ho. Tuy nhiên bệnh này không dễ lây lan; phải có sự tiếp xúc gần gũi, lặp đi lặp lại với người bệnh không được điều trị trong thời gian dài mới có thể dẫn đến nhiễm bệnh phong.
Vi khuẩn gây bệnh phong sinh sôi rất chậm. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh có thời gian ủ bệnh trung bình (khoảng thời gian từ khi nhiễm bệnh đến khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên) là 5 năm. Thậm chí các triệu chứng có thể không xuất hiện trong 20 năm.
Theo Tạp chí Y học New England, một loài thuộc bộ thú có mai có nguồn gốc từ miền nam Hoa Kỳ và Mexico cũng có thể mang bệnh và truyền sang người.
Phân loại bệnh phong
Có 3 hệ thống phân loại bệnh phong.
1. Bệnh phong thể củ, bệnh phong thể u và bệnh phong thể trung gian
Hệ thống đầu tiên chia bệnh phong thành 3 thể: thể củ, thể u và thể trung gian. Phản ứng miễn dịch của một người đối với căn bệnh này xác định họ mắc phải thể nào sau đây:
- Trong bệnh phong thể củ, đáp ứng miễn dịch của người bệnh tốt nên chỉ biểu hiện một vài tổn thương. Bệnh nhẹ và ít lây hơn các thể khác.
- Trong bệnh phong thể u, đáp ứng miễn dịch của người bệnh kém. Bệnh ảnh hưởng đến da, dây thần kinh và các cơ quan khác. Đồng thời gây các tổn thương lan rộng, bao gồm các nốt (cục lớn và vết sưng). Thể này nghiêm trọng và dễ lây lan hơn.
- Trong bệnh phong thể trung gian, có các đặc điểm lâm sàng của cả thể u và thể củ. Mức độ nặng và lây lan nằm giữa hai thể trên.
2. Phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
WHO phân loại bệnh phong thành 2 nhóm:
- Nhóm ít vi khuẩn: Có từ 5 tổn thương da trở xuống và không phát hiện thấy vi khuẩn trong các mẫu da.
- Nhóm nhiều vi khuẩn: Có từ 6 thương tổn da trở lên hoặc vi khuẩn được phát hiện trong các mẫu da, hoặc cả hai.
3. Phân loại Ridley-Jopling
Các nghiên cứu lâm sàng sử dụng hệ thống Ridley-Jopling. Nó có 5 phân loại dựa trên mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
Phân loại | Triệu chứng | Đáp ứng |
Thể củ | Một số ít tổn thương phẳng, có thể lớn và bị tê nhẹ | Có thể tự lành, kéo dài hoặc tiến triển sang dạng nặng hơn |
Thể trung gian nhẹ | Tổn thương tương tự như thể củ nhưng số lượng nhiều và rộng hơn | Có thể giữ nguyên, trở lại thể củ hoặc tiến triển sang dạng khác |
Thể trung gian vừa | Xuất hiện các mảng đỏ trên da, bị tê vừa và sưng hạch bạch huyết. | Có thể giữ nguyên, thoái triển hoặc tiến triển sang dạng khác |
Thể trung gian nặng | Nhiều tổn thương da bao gồm tổn thương phẳng, nốt sưng, nốt sần, mảng. Cảm giác tê bì xảy ra nặng hơn. | Có thể giữ nguyên, thoái triển hoặc tiến triển sang dạng khác |
Thể u | Nhiều tổn thương có vi khuẩn, rụng tóc, các tổn thương đến thần kinh nghiêm trọng hơn với dây thần kinh ngoại vi dày lên, yếu tay chân, có biến dạng. | Không thoái triển |
Ngoài ra còn có một dạng bệnh phong gọi là thể bất định không có trong hệ thống phân loại Ridley-Jopling. Đây được coi là giai đoạn sớm của bệnh phong khi chỉ có 1 tổn thương trên da có cảm giác hơi tê khi chạm vào. Bệnh phong thể bất định có thể thoái lui hoặc tiến triển thành một trong năm dạng bệnh phong trong hệ thống Ridley-Jopling.
Chẩn đoán bệnh phong
Bác sĩ sẽ tiến hành khám sức khỏe để tìm kiếm các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Ngoài ra, họ sẽ thực hiện sinh thiết để lấy một mảnh da / dây thần kinh nhỏ và gửi đến phòng xét nghiệm để kiểm tra.
Bác sĩ cũng có thể thực hiện xét nghiệm trên da để xác định dạng bệnh phong. Họ sẽ tiêm một lượng nhỏ vi khuẩn gây bệnh phong (đã bị bất hoạt) vào da, thường là ở cẳng tay. Những người bị bệnh phong thể củ hoặc thể trung gian sẽ có kết quả dương tính với vi khuẩn phong tại chỗ tiêm.
Điều trị bệnh phong
WHO đã đưa ra một liệu pháp đa trị liệu vào năm 1995 để chữa tất cả các loại bệnh phong và phát miễn phí trên toàn thế giới. Một số loại thuốc kháng sinh điều trị bệnh phong bằng cách tiêu diệt vi khuẩn gây ra bệnh phong. Những loại kháng sinh này bao gồm:
- Dapsone (Aczone)
- Rifampin (Rifadin)
- Clofazimine (Lamprene)
- Minocycline (Minocin)
- Ofloxacin (Ocuflux)
Bác sĩ có thể sẽ kê đơn nhiều loại kháng sinh cùng một lúc. Họ cũng có thể yêu cầu dùng thuốc chống viêm như aspirin (Bayer), prednisone (Rayos) hoặc thalidomide (Thalomid). Việc điều trị sẽ kéo dài trong nhiều tháng và có thể lên đến 1 - 2 năm.
Người bệnh không bao giờ nên dùng thalidomide nếu đang hoặc có thể mang thai vì nó có thể tạo ra các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng.
Biến chứng bệnh phong
Bệnh phong được chẩn đoán và điều trị chậm trễ có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm:
- Biến dạng
- Rụng tóc, đặc biệt là trên lông mày và lông mi
- Yếu cơ
- Tổn thương dây thần kinh vĩnh viễn ở tay chân
- Không có khả năng sử dụng tay chân
- Nghẹt mũi mãn tính, chảy máu cam và xẹp vách ngăn mũi
- Viêm mống mắt
- Tăng nhãn áp, gây tổn thương dây thần kinh thị giác
- Mù lòa
- Rối loạn cương dương
- Vô sinh
- Suy thận
Phòng ngừa bệnh phong
Cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh phong là tránh tiếp xúc lâu dài, gần gũi với người bị nhiễm bệnh chưa được điều trị.
Tiên lượng bệnh phong
Tiên lượng sẽ tốt hơn nếu bác sĩ chẩn đoán bệnh phong kịp thời trước khi bệnh trở nên trầm trọng. Điều trị sớm ngăn ngừa tổn thương tiếp tục hay sự lây lan của bệnh và các biến chứng sức khỏe nghiêm trọng.
Tiên lượng kém khi chẩn đoán bệnh ở giai đoạn nặng hơn, sau khi bị biến dạng hoặc khuyết tật đáng kể. Tuy nhiên, việc điều trị đúng cách vẫn là cần thiết để ngăn ngừa bất kỳ tổn thương nào thêm cho cơ thể và ngăn ngừa bệnh lây lan sang người khác.
Có thể có các biến chứng vĩnh viễn mặc dù đã dùng kháng sinh thành công, nhưng bác sĩ sẽ làm việc với người bệnh để có sự chăm sóc thích hợp nhằm giúp ứng phó và kiểm soát bất kỳ tình trạng bệnh nào còn sót lại.